Thứ Năm, 29 tháng 12, 2011

Cà rốt (2 bài)

Bài 1. Cà rốt - siêu thực phẩm cho mùa đông


Theo VietnamNet

Ăn cà rốt sẽ giúp tốt cho sức khỏe toàn thân, đặc biệt là những cơ quan quan trọng như mắt, da, hệ tiêu hóa, răng, đặc biệt là vào mùa đông. Đó là lý do tại sao mà loại củ này được cả thế giới ưa chuộng từ hàng ngàn năm qua...

Dưới đây là những công dụng của củ cà rốt mà bạn có thể chưa biết:

Ngăn ngừa ung thư

Nhiều công trình nghiên cứu cho biết, ăn cà rốt giúp hạ thấp nguy cơ ung thư phổi, ung thư vú và ung thư ruột kết. Gần đây, các nhà khoa học đã cô lập một hợp chất có tên gọi là falcarinol trong cà rốt được cho là có tác dụng chống lại ung thư.

Falcarinol là loại “thuốc trừ sâu tự nhiên”(natural pesticide) có chức năng bảo vệ gốc củ cà rốt không bị bệnh nấm bệnh. Trong bữa ăn hàng ngày, cà rốt gần như là thực phẩm duy nhất có chứa những hợp chất này. Một nghiên cứu được thực hiện ở chuột cho thấy, khi chúng được cho ăn cà rốt sống hoặc chất falcarrinol thì giảm được 33% nguy cơ ung thư ruột kết so với những con chuột không được ăn.

Cải thiện thị lực

Võng mạc của mắt cần vitamin A để hoạt động, nếu thiếu vitamin A sẽ gây ra mù quáng vào ban tối. Cà rốt là thực phẩm giàu beta-carotene, chất được chuyển thành vitamin A ở gan.

Ở võng mạc, vitamin A được chuyển thành rhodopsin, sắc tố màu tía cần thiết cho thị lực ban đêm. Hơn nữa, beta-carotene chống lại sự suy hóa võng mạc và sự phát triển của bệnh đục nhân mắt. Một nghiên cứu cho thấy, những người có chế độ ăn giàu beta-carotene giảm được 40% nguy cơ suy hóa võng mạc so với những người ăn ít.

Ngăn đau tim

Các ngiên cứu cho thấy, chế độ ăn uống giàu chất carotenoids có liên quan đến nguy cơ ít mắc bệnh đau tim. Người ta cũng tin rằng, thường xuyên ăn cà rốt giảm được nồng độ cholesterol trong máu. Các chất xơ hòa tan trong cà rốt có thể làm giảm nồng độ cholesterol trong máu bằng cách loại bỏ các axit mật

Ngăn ngừa tai biến mạch máu não

Bạn mắc bệnh tai biến mạch máu não? Lời khuyên của các nhà khoa học ở Trường đại học Harvard, Mỹ là nên ăn nhiều cà rốt. Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy, những người ăn hơn 6 củ cà rốt mỗi tuần giảm được nguy cơ tai biến mạch máu não đáng kể so với những người ăn mỗi tháng 1 củ hoặc ít hơn.

Giúp làn da tươi đẹp

Cà rốt có chứa thành phần làm sạch rất mạnh mà có thể giải độc cho gan, điều này cũng góp phần làm giảm mụn trứng cá gây ra bởi các độc tố xuất phát từ máu. Cà rốt cũng thường được sử dụng để điều trị làn da nhăn nheo và thô ráp mùa đông. Vitamin A và các dinh dưỡng khác có chứa trong củ cà rốt giúp chăm sóc làn da rất hiệu nghiệm, giup chống lại sự khô da và mang lại vẻ đẹp tự nhiên cho bạn.

Giúp trẻ lâu

Cà rốt có chứa nhiều beta-carotene, thành phần hoạt động như chất chống oxi hóa để giúp cơ thể chống lại sự tổn thương ở các tế bào do cơ thể hít phải không khí độc hại hoặc máu bị “nhiễm bẩn”. Nó cũng có tác dụng làm chậm quá trình lão hóa ở tế bào và nhiều tác động tiêu cực liên quan đến lão hóa. Do vậy, muốn trẻ lâu, bạn nên chăn ăn cà rốt hoặc uống sinh tố cà rốt.

Giúp răng chắc khỏe

Cà rốt được xem như loại kem đánh răng tự nhiên vì nó giúp răng miệng sạch và là cách tốt nhất để cho miệng của bạn sạch sau mỗi bữa ăn. Chúng hoạt động như chất cọ rửa tự nhiên, giúp loại bỏ những chất bẩn bám ở răng. Chúng cũng giúp cơ thể tiết ra nhiều nước miếng, điều này sẽ giúp lau chùi những vết nhơ ở răng. Các chất khoáng ở cà rốt giúp tiêu diệt các vi khuẩn ở răng và ngăn chặn răng tổn thương.

Cải thiện huyết áp

Nhờ giàu hàm lượng chất xơ hòa tan nên khi ăn cà rốt sẽ giúp bạn giảm lượng cholesterol bằng cách kiềm hãm sự hiện diện của những cholesterol có hại(LDL) đồng thời làm tăng lượng cholesterol có lợi cho cơ thể(HDL). Hệ quả là nó giúp làm nguy cơ máu đóng cục(tắc nghẽn mạch máu) và đau tim.

Giúp hệ tiêu hóa khỏe mạnh

Cà rốt hỗ trợ hệ tiêu hóa bằng cách tăng cường nước miếng đồng thời cung cấp khoáng chất, vitamin và enzyme cần thiết cho cơ thể. Thường xuyên ăn cà rốt giúp ngăn chặn viêm loét dạ dày và rối loạn tiêu hóa.

Một số công dụng khác của cà rốt:

- Cà rốt sống hoặc chín đều có thể sử dụng để điều trị vết thương, đứt tay và nhiễm trùng.

- Cà rốt giàu chất carotenoids nên giúp điều chỉnh lượng đường trong máu.

- Thường xuyên ăn cà rốt sẽ giúp phụ nữ nuôi con có nhiều sữa và chất lượng sữa hơn.

- Phụ nữ chăm ăn cà rốt cũng sẽ giúp giảm rối loạn kinh nguyệt và khí hư.

- Cuối cùng là cà rốt có thể giúp cải thiện vẻ đẹp của tóc, móng tay, chân và da.

Bài 2. Nên ăn cà rốt thế nào để không ngộ độc?


Cà rốt là loại rau củ được các chuyên gia dinh dưỡng khuyên dùng để bổ sung vitamin A cho trẻ, nhưng vì sao lại gây ngộ độc? Và ăn cà rốt thế nào để không ngộ độc?

Thông tin một bé gái suýt tử vong vì ăn nhiều cà rốt dẫn đến ngộ độc methemoglobine máu, đang làm nhiều phụ huynh lo lắng.

Thủ phạm gây ngộ độc cà rốt

Trên cơ sở khai thác bệnh sử em bé này (bé N), bình thường gia đình hay nấu canh xúp có cà rốt cho bé N. ăn để bổ sung vitamin A và bé cũng thích ăn cà rốt sống, các bác sĩ đã đi đến nhận định bệnh nhi bị methemoglobine máu do ăn nhiều cà rốt.

“Nồng độ chất nitrate có nhiều trong cà rốt. Khi ăn nhiều và lâu ngày sẽ gây methemoglobin ở trẻ nhỏ, biến đổi hemoglobine thành methemoglobine quá khả năng bù trừ của hệ thống men khử, đưa đến tăng methemoglobine máu, làm bệnh nhân tím tái, khó thở, có thể tử vong nếu không điều trị kịp thời”, bác sĩ Tiến nói.

Cũng theo bác sĩ Tiến, ngoài cà rốt, một số loại rau củ khác cũng có nồng độ chất nitrate nhiều, có khả năng gây ra tình trạng methemoglobine máu cao nếu lạm dụng thái quá như củ dền, cải bẹ xanh, bắp cải, củ cải đường…

“Bất kỳ một loại thực phẩm nào cũng cần dinh dưỡng đúng cách và đa dạng. Nếu muốn bổ sung dưỡng chất cho các bé, phụ huynh nên đưa bé đi khám sức khoẻ trước để xem tình trạng ra sao, trên cơ sở đó bác sĩ sẽ có những chỉ định bổ sung dưỡng chất hợp lý”, bác sĩ Tiến khuyên.

TS.BS Lê Thị Phương Dung, giảng viên bộ môn dinh dưỡng, đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM cho biết cà rốt là một loại rau củ rất giàu dưỡng chất, đặc biệt là beta-caroten (tiền vitamin A), khi hấp thụ vào cơ thể sẽ được chuyển hoá thành vitamin A, có tác dụng phòng ngừa bệnh khô mắt, quáng gà, mù loà ở trẻ em...

Gọt vỏ, cắt hai đầu khi sử dụng

Ngoài ra, trong cà rốt còn có nhiều dưỡng chất giá trị khác như canxi, sắt, magiê, axít folic, kali, sợi pectin (giúp hạ cholesterol máu). “Không nên vì những thông tin ngộ độc cà rốt, mọi người đâm ra tẩy chay loại thực phẩm bổ dưỡng này.

Điều quan trọng là phải biết cách sử dụng hợp lý để tận dụng được tối đa những mặt lợi và hạn chế mặt hại của cà rốt”, bác sĩ Dung nói và đưa ra một số lời khuyên cho người dùng cà rốt:

Gọt vỏ, cắt bỏ hai đầu trước khi ăn: Chọn mua những củ cà rốt có màu tươi sáng, cứng chắc, thẳng và trơn láng. Cà rốt có màu cam càng đậm càng chứa nhiều betacarotene. Cắt bỏ cành, lá càng sớm càng tốt vì chúng sẽ rút đi vitamin, muối khoáng và nước từ phần củ.

Để tránh ngộ độc hoá chất từ thuốc diệt côn trùng còn sót lại trên cà rốt, trước khi ăn nên rửa sạch, gọt vỏ và cắt bỏ hai đầu.

Nên nấu chín hay xay ép cà rốt: Khác với một số loại rau củ khác phải ăn sống mới hấp thu được dưỡng chất, cà rốt nấu chín hay đã xay ép thành nước đem lại nhiều chất dinh dưỡng hơn. Để lấy được nguồn dinh dưỡng tối đa từ cà rốt thì chỉ nên dùng loại tươi nhất và đã qua đun nấu, tốt nhất là luộc sơ và nên chế biến cùng với một ít dầu, mỡ để việc hấp thu vitamin A từ thực phẩm được tốt hơn.

Ăn đủ lượng cần thiết, không liên tục: Ăn lâu dài một số lượng lớn cà rốt không chỉ gây ra tình trạng ngộ độc cà rốt do tăng methemoglobine máu mà lượng carotene cao tích trữ trong cơ thể không được chuyển hoá hết cũng sẽ gây ứ đọng ở gan gây chứng vàng da (biểu hiện rõ nhất ở chóp mũi, lòng bàn tay, gan bàn chân…), ăn không tiêu, mệt mỏi...

Tình trạng này tuy chỉ gây ảnh hưởng thẩm mỹ, không nguy hiểm và dễ kiểm soát (chỉ cần ngưng hay giảm ăn cà rốt một thời gian sẽ hết vàng da) nhưng cũng dễ làm người bệnh lo lắng. Vì vậy, tốt hơn hết nên ăn đúng liều lượng cần thiết.

Liều dùng phù hợp nhất trung bình mỗi tuần chỉ nên ăn từ hai đến ba bữa cà rốt, mỗi bữa nên ăn khoảng 50g (nửa củ to hoặc một củ nhỏ). Khi ăn nếu có biểu hiện nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, ói… nên ngưng ngay và nhanh chóng đến bệnh viện để được chẩn đoán có phải đã bị ngộ độc.

Theo afamily.vn

Những thực phẩm nên ăn tùy theo tâm trạng

Các thực phẩm khác nhau ảnh hưởng đến tâm trạng của chúng ta theo những cách khác nhau. Có những loại thực phẩm nên được tiêu thụ phù hợp với tâm trạng sẽ phát huy tác dụng cao hơn.

Có khi nào bạn tự hỏi, tại sao bạn thèm một thanh sô-cô-la khi cảm thấy tinh thần trì trệ? Hoặc có bao giờ bạn thắc mắc tại sao bạn thèm ăn các loại hạt khi bạn căng thẳng?... Đó là do tâm trạng của bạn khác nhau.

Đây là lý do tại sao các thực phẩm khác nhau ảnh hưởng đến tâm trạng của chúng ta theo những cách khác nhau. Có những loại thực phẩm nên được tiêu thụ phù hợp với tâm trạng sẽ phát huy tác dụng cao hơn. Thứ nhất, sẽ tốt cơ thể, thứ hai sẽ làm thay đổi tâm trạng theo chiều hướng tốt hơn (hoặc cũng có thể ngược lại).

Khi bạn căng thẳng

Thời gian cho công việc của bạn sắp kết thúc, và bạn còn một mớ công việc chưa hoàn thành xong, và bạn có xu hướng "bấn loạn" và làm lẫn lộn với nhau. Làm sao để thoát khỏi tình trạng này, nhất là vào những ngày cuối năm?

Chỉ cần tạo cho mình thói quen hít thở sâu và bổ sung thêm các loại thực phẩm như hạt bí ngô, hạt lanh, quả óc chó... Những thực phẩm giàu omega 3 còn giúp cơ thể của chúng tôi tăng cường magiê làm tăng khả năng của cơ thể để đối phó với sự căng thẳng, stress và mệt mỏi.

Vào một ngày đặc biệt và bạn cảm thấy quá căng thẳng, hãy lên kế hoạch ăn cá nướng cho bữa ăn tối. Cách hay này sẽ giúp làm dịu thần kinh của bạn.

Khi bạn lo lắng, bồn chồn

Ví dụ như trước buổi phỏng vấn, trước một sự kiện trọng đại, bạn có cảm giác bồn chồn, lo lắng. Bạn muốn thoát khỏi cảm giác này để không phải xấu hổ với mọi người? Đơn giản chỉ cần nhâm nhi một ít nước vôi hoặc ăn món ăn yêu thích của bạn là khoai tây. Những thực phẩm này rất giàu vitamin B tổng hợp và vitamin C giúp bạn thư giãn.

Tuy nhiên, hãy cố gắng tránh những thực phẩm chiên hoặc thực phẩm có caffeine, bởi chúng có thể làm giảm bớt sự lo lắng của bạn. Các loại thực phẩm giàu protein như thịt gà nướng cũng có thể tác động lên dây thần kinh, giúp bạn giảm sự kinh bồn chồn. Protein giúp cơ thể của bạn để tạo ra dopamine và làm cho bạn bình tĩnh hơn.

Khi bạn buồn

Thời gian gần đây bạn cảm thấy u ám và luôn có cảm giác mang mác buồn, dù là không rõ lý do. Theo các chuyên gia tâm lý, trong những trường hợp như này, chỉ cần ăn một miếng sô-cô-la đen, ngay lập tức sẽ tăng mức năng lượng của bạn và để lại cho bạn cảm giác nhẹ nhõm hơn. Các loại thực phẩm giàu magiê như chuối và mơ cũng sẽ có tác dụng hỗ trợ giảm buồn. Axit folic trong rau bina hoặc một ly nước ép cam cũng sẽ làm cho tâm trạng của bạn vui hơn.

Khi bạn tức giận

Để kiểm soát sự bình tĩnh của bạn, hãy tiêu thụ những thức ăn có tính chất làm mát như dưa chuột hoặc một cốc sữa chua. Chúng ta cũng nên tránh xa các đồ uống có ga và cồn vì chúng sẽ làm trầm trọng thêm những cảm xúc khó chịu này.

Những tâm trạng khác nhau ở những thời điểm khác nhau là khó tránh, và nhiều khi bạn muốn thoát khỏi những tâm trạng đó không được. Hãy ghi nhớ những hướng dẫn thực phẩm nói trên để có thể dễ dàng kiểm soát tâm trạng của mình tốt hơn!

Theo afamily.vn

Những thời điểm ăn uống cần lưu ý trong ngày

Bạn nghĩ rằng mình có chế độ ăn uống lành mạnh? Chưa chắc. Bởi có thể bạn đang mắc sai lầm ăn những loại độ ăn không thích hợp thời điểm. Vậy ăn uống đúng thời điểm là thế nào?

Hãy tham khảo bài viết dưới đây nhé:

Trước giờ tập thể dục

Cho dù bạn chọn tập thể dục vào buổi sáng hay sau giờ làm việc thì chắc chắn bạn cũng không muốn đi đến phòng tập với một dạ dày trống rỗng. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trước khi tập luyện, bạn nên cung cấp carbohydrates để cung cấp nhiên liệu cho cơ bắp của mình. Để cung cấp carbohydrate và protein, bạn chỉ cần ăn một chút bánh Muffin với bơ đậu phộng hoặc bột yến mạch với hoa quả hoặc bánh ngũ cốc nguyên hạt...

Sau buổi thể dục

Sau khi thể dục, cơ thể bạn có nhu cầu khác nhau. Cơ thể bạn đang tiêu hóa carbohydrate, vì vậy bạn có thể bắt đầu xây dựng năng lượng cũng như đang hấp thụ một số protein, giúp sửa chữa cơ bắp - theo Bethany Thayer, RD, một phát ngôn viên của Hiệp hội dinh dưỡng Mỹ. Lúc này, sẽ là tốt hơn nếu bạn uống một ly sữa. Sữa là một trong các loại thực phẩm tốt nhất sau khi tập thể dục. Ngoài ra, bạn cũng có thể chọn sô-cô-la sữa để cung cấp carbohydrate nhiều hơn một chút. Các đồ ăn nhẹ sau khi tập luyện khác bao gồm bánh quy giòn với bơ đậu phộng, rau xắt nhỏ...

Bữa trưa ăn nhanh

Cho dù bạn đang rất bận trong công việc hoặc bận họp ở đúng giờ nghỉ trưa thì cũng không có nghĩa là bạn có thể bỏ bữa trưa. Một bữa trưa ăn nhanh cũng tốt hơn là không ăn gì. Vậy nên, bạn có thể chọn những thực phẩm ăn nhanh mà vẫn cung cấp một sự cân bằng lành mạnh của các chất dinh dưỡng cho cơ thể như bánh quy giòn, bánh pizza Muffin, trứng luộc, cá ngừ đóng hộp...

Sau bữa trưa

Vào khoảng 3-4 giờ chiều, có thể bạn đã thèm ăn uống một cái gì đó. Một tách cà phê vào cuối buổi chiều lúc này có thể sẽ khiến bạn mất ngủ về đêm. Vậy nên, thay vào đó, hãy chọn một cái gì đó có mùi thơm ngon, như một quả cam chẳng hạn. Cam vừa dễ tiêu hóa, lại không bắt cơ thể phải hấp thụ nhiều đường nhưng lại giàu vitamin C.

Trước khi ăn tối

Một lần nữa, chưa đến giờ ăn tối mà bạn đã cảm thấy đói khát do làm việc mệt mỏi. Nếu không thể chờ được đến bữa ăn tối thì bạn có thể ăn một chút pho mát, bánh quy giòn. Bạn cũng có thể ăn hoa quả, miễn sao để hạn chế cảm giác đói mà không ảnh hưởng gì tới bữa ăn tối. Thêm vào đó, bạn nên chọn những đồ ăn có lượng calo thấp để tránh nạp quá nhiều calo vào cơ thể.

Bữa đêm, sau bữa tối

Cho dù đã ăn tối, nhưng trước giờ đi ngủ bạn vẫn thèm ăn. Điều quan trọng là, bạn không nên ăn quá nhiều ở thời điểm này vì nó có thể gây trở ngại cho giấc ngủ của bạn. Nếu thực sự muốn, bạn chỉ nên uống một cốc sữa ấm hoặc ăn một chút ngũ cốc.

Một trong những cạm bẫy của một buổi tối là thèm một bữa ăn nhẹ ban đêm không lành mạnh. Tuy nhiên, bánh pizza hay mì ống không phải là lựa chọn hay. Theo ý kiến của các chuyên gia y tế thì, chúng ta có thể uống một cốc nhỏ đồ uống có lượng cồn thấp, ví dụ như cocktails. Thứ đồ uống này vừa có tác dụng dưỡng ẩm cho cơ thể lại ít natri nên sẽ không bắt gan phải cố gắng xử lý như xử lý các loại rượu khác.

Sáng hôm sau

Nếu bạn cảm thấy một chút rượu vang tối hôm trước có thể khiến bạn hơi váng đầu vào sáng hôm sau thì bạn có thể dùng nước ép trái cây với những đặc tính giải độc của nó để cảm thấy tỉnh táo hơn. Quả việt quất có thể đảm nhiệm khả năng này, hơn nữa nó lại là loại quả tuyệt vời cho dạ dày.

Ngoài ra, bạn cũng có thể dùng các loại trà thơm như màu xanh lá cây bạc hà, trà hoa cúc... vừa có khả năng chống ôxy hóa lại có thể chống viêm rất tốt.

Theo afamily.vn

7 tư thế có hại cho sức khoẻ chị em

Dù ngồi hay đứng, dù đi bộ hay chạy thể dục.... nếu không chú ý tư thế sẽ rất dễ đau mỏi và lâu dài có thể gây các bệnh cột sống, đầu gối...

Tư thế ngồi làm việc

Nhiều người khi làm việc hay cong lưng để nhìn rõ máy tính. Việc này rất hại cho sức khoẻ, có thể dẫn đến các bệnh đau đốt sống cổ, đau vai, lưng và eo…

Lời khuyên: Nên chọn loại ghế có thể điều chỉnh độ cao và góc của lưng ghế vuông. Khi ngồi cần đảm bảo cho đầu gối, đùi và lưng tạo góc 90 độ, giữ ngực và vai mở rộng mang lại tác dụng hỗ trợ cho quá trình hô hấp được bình thuờng.

Tư thế xem ti vi

Xem ti vi có thể coi là hoạt động thư giãn của chị em. Chị em thường chọn tư thế thật thoải mái để có thể vừa xem ti vi vừa thưởng thức món ăn vặt yêu thích. Tuy nhiên, tư thế này cũng vô cùng có hại cho sức khoẻ. Ngồi lâu đến tê người sẽ có hại cho hệ tiêu hoá. Tư thế ngồi lười trong ghế sô-fa không chỉ chèn ép nội tạng, mà còn dễ khiến các cơ ở vùng eo bị đau mỏi.

Lời khuyên: Nên chọn loại ghế sô-fa cao và cứng một chút. Nếu ghế quá mềm, khoảng cách ngồi và lưng ghế quá sâu có thể đặt thêm gối tựa lưng giữ cho lưng và eo thẳng.

Tư thế suy ngẫm

Nhiều người có thói quen nâng quai hàm khi suy nghĩ để có cảm giác não bộ tập trung hơn vào vấn đề. Tuy nhiên tư thế này dễ khiến lưng bị đau mỏi. Đây là tư thế không có lợi cho cột sống, cũng dễ gây bệnh đau đầu.

Lời khuyên: Khi cần suy ngẫm việc gì, nên đứng dậy đi lại; hoặc đặt 2 tay sau gáy, xoay chuyển vùng cổ giúp cho máu ở não bộ lưu thông.

Tư thế đứng

Chị em hay đi giầy cao gót có thói quen đứng lệch trọng tâm về một bên, khi mỏi dồn trọng tâm về bên còn lại. Tư thế này dễ khiến cột sống bị tổn thương, làm cho hai bên eo phải chịu lực không cân bằng, gây đau lưng mỏi eo.

Lời khuyên: Nên đứng hơi dồn trọng tâm về phía trước, hai chân hơi khép vào nhau, mắt nhìn thẳng.

Tư thế đi

Nhịp sống nhanh khiến nhiều người khi đi có thói quen cúi đầu đi nhanh về phía trước, không để ý tới xung quanh. Cúi đầu, co ngực lại sẽ làm ảnh hưởng đến tim phổi, dễ gây cảm giác mệt mỏi.

Lời khuyên: Ngẩng đầu, nhìn ngang về phía trước, bước những bước ngắn, nhanh để tăng tần suất vận động của hai chân sẽ có tác dụng kích hoạt chức năng tim phổi.

Tư thế xuống cầu thang

Nhiều người có thói quen đá chân khi xuống cầu thang. Tư thế này tạo gánh nặng cho các khớp, đặc biệt làm tổn thương đầu gối.

Lời khuyên: Đầu gối và mũi chân nên ở cùng đường thẳng, để trọng lượng cơ thể dồn vào bàn chân khi đi.

Tư thế chạy

Chạy bộ buổi sáng vừa giúp rèn luyện sức khoẻ, lại có thể hít thở không khí trong lành. Tuy nhiên tư thế chạy không đúng cũng ảnh hưởng đến sức khoẻ của bạn. Nhiều người khi chạy chỉ nhấc cẳng chân, không vận động cả chân sẽ dễ gây mệt mỏi, có hại cho đầu gối.

Lời khuyên: Khi chạy nên kết hợp vận động của cả cẳng chân, đùi, xương chậu và cánh tay trên để giúp các cơ tiết kiệm lực, giảm áp lực cho đầu gối và rèn luyện tim phổi.

Theo afamily.vn

8 kiểu phụ nữ dễ sinh con trai

Nếu bạn giàu, hoặc bạn có chí tiến thủ, hoặc luôn có chồng quấn quýt bên cạnh, bạn sẽ có nhiều khả năng sinh con trai hơn.

Các chuyên gia y tế đã tổng kết, 8 kiểu phụ nữ sau đây dễ sinh con trai.

1. Phụ nữ có trí nhớ tốt

Theo một nghiên cứu của nhóm chuyên gia thuộc ĐH Simon Fraser, Canada, phụ nữ mang bầu bé trai thường có trí nhớ, khả năng tính toán tốt hơn các chị em mang thai con gái. Nghiên cứu này được tiến hành trong 18 tháng, từ khi sản phụ mới có bầu tới sau sinh nở vài tháng. Các chuyên gia đánh giá, giới tính của thai nhi ảnh hưởng nhất định tới trí tuệ, khả năng nhận biết của người mẹ.

2. Phụ nữ có thời gian chuẩn bị mang thai dài

Nhóm nghiên cứu tới từ ĐH Maastricht, Hà Lan đã phát hiện ra quy luật thú vị này. Các chuyên gia tiến hành nghiên cứu với 5.283 sản phụ. Kết quả cho thấy, trong số 498 phụ nữ chuẩn bị hơn một năm trước khi mang bầu, có tới 58% sinh con trai, trong khi tỷ lệ này ở số phụ nữ có bầu trong thời gian sớm hơn chỉ đạt 51%. Các chuyên gia lý giải, những phụ nữ có nhiều dịch nhầy trong tử cung tuy khó thụ thai nhưng trong thời gian dài, nó sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ giúp tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y dễ dàng gặp trứng.

3. Phụ nữ luôn có chồng ở bên

Tiến sĩ Karen Norberg, chuyên gia y tế thuộc Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ sau khi tiến hành nghiên cứu với 86.436 sản phụ đã chỉ ra rằng, nếu trong thời gian mang bầu, người vợ luôn nhận được tình yêu và sự săn sóc của chồng, tỷ lệ sinh con trai sẽ cao hơn 14% so với các bà mẹ đơn thân. Kết quả này bước đầu cho thấy, phương thức sống ảnh hưởng phần nào tới giới tính của thế hệ sau.

4. Phụ nữ ăn nhiều ngũ cốc trước khi mang bầu

Có 740 phụ nữ tham gia nghiên cứu này. Các chuyên gia của ĐH Exeter và ĐH Oxford, Anh đã yêu cầu họ liệt kê tỉ mỉ thực đơn mỗi tuần trước khi mang bầu, bao gồm số lượng và thành phần dinh dưỡng của thức ăn. Kết quả cho thấy, có tới 59% phụ nữ ăn sáng bằng ngũ cốc và bỏng ngô trước và trong thời gian mang thai con trai. Chỉ có 43% trong số những người không mặn mà với các thực phẩm này hạ sinh quý tử. Điều này cho thấy, thực phẩm có mối liên hệ nhất định tới giới tính thai nhi.

5. Phụ nữ giàu có

Một nghiên cứu mới đây của giới khoa học Mỹ chỉ rõ, những phụ nữ gia cảnh sung túc, điều kiện kinh tế dư dả, trình độ văn hóa cao có tỷ lệ sinh con trai cao hơn so với các chị em eo hẹp tiền nong, sức khỏe yếu ớt.

6. Sản phụ làm công việc của nam giới

Kiến trúc sư, kế toán… là những công việc vốn thuộc về đàn ông, nhưng không ít phụ nữ trong xã hội hiện đại vẫn đảm nhận thành công các vị trí này. Nhóm chuyên gia tại Học viện kinh tế London đã tiến hành điều tra với 3.000 phụ nữ và rút ra kết luận, tỷ lệ sinh con trai so với con gái trong nhóm sản phụ làm kiến trúc sư, kế toán… là 140/ 100.

7. Phụ nữ có chí tiến thủ cao

Theo giới khoa học Trung Quốc, những phụ nữ có chí tiến thủ cao, tính cách cứng rắn, bản lĩnh thường dễ sinh con trai hơn các chị em nhu mì. Các chyên gia lý giải, phụ nữ thuộc tuýp mạnh mẽ thường có chỉ số testosterone trong buồng trứng tương đối cao. Đó là điều kiện thuận lợi giúp nhóm sản phụ này có nhiều khả năng mang bầu bé trai.

8. Phụ nữ ăn nhiều

Theo nghiên cứu của các chuyên gia Mỹ và Thụy Điển, những sản phụ trong thời gian mang thai nạp nhiều thực phẩm sẽ có tỷ lệ sinh con trai cao hơn những nhóm khác. Chuyên gia Rulla Tamimi thuộc trường y Harvard là người đứng đầu nghiên cứu này. Họ tiến hành điều tra với 244 sản phụ trong vòng 6 tháng. Kết quả cho thấy, testosterone tiết ra từ tinh hoàn nam thai nhi có liên quan trực tiếp tới lượng thức ăn lớn mà sản phụ hấp thu vào người. Đặc biệt, bà bầu ăn nhiều cơm càng có nhiều cơ hội sinh quý tử. Các chuyên gia cũng nhấn mạnh, trong thời gian thai kỳ, sản phụ phải tiêu hao lượng lớn calo và protein. Do vậy, chị em nên chú ý bổ sung các thực phẩm chứa carbohydrate và chất béo động thực vật.

Nguồn: Đất Việt

Tử vi năm Nhâm thìn 2012


Giáp Tý (02.02.1984 – 19.021.985) – Dương Nam
Canh Tý (28.01.1960 – 14.02.1961) – Dương Nữ
Canh Tý (28.01.1960 – 14.02.1961) – Dương Nam
Bính Tý (19.02.1996 – 06.02.1997) – Dương Nam
Bính Tý (19.02.1996 – 06.02.1997) – Dương Nữ
Giáp Tý (02.02.1984 – 19.02.1985) – Dương Nữ
Mậu Tý (10.02.1948 – 28.01.1949) – Dương Nam
Mậu Tý (10.02.1948 – 28.01.1949) – Dương Nữ
Nhâm Tý (15.02.1972 – 02.02.1973 ) – Dương Nam
Nhâm Tý (15.02.1972 – 02.02.1973) – Dương Nữ
Sửu
Ất Sửu (20.02.1985 – 08.02.1986) – Âm Nam
Ất Sửu (20.02.1985 – 08.02.1986) – Âm Nữ
Kỷ Sửu (29.01.1949 – 16.02.1950) – Âm Nam
Kỷ Sửu (29.01.1949 – 16.02.1950) – Âm Nữ
Quý Sửu (03.02.1973 – 22.02.1974) – Âm Nam
Quý Sửu (03.02.1973 – 22.02.1974) – Âm Nữ
Tân Sửu (15.02.1961 – 04.02.1962) – Âm Nam
Tân Sửu (15.02.1961 – 04.02.1962) – Âm Nữ
Dần
Bính Dần (09.02.1986 – 28.01.1987) – Dương Nam
Bính Dần (09.02.1986 – 28.01.1987) – Dương Nữ
Canh Dần (17.02.1950 – 05.02.1951) – Duong Nam
Canh Dần (17.02.1950 – 05.02.1951) – Dương Nữ
Giáp Dần (23.01.1974 – 10.02.1975 )- Dương Nam
Giáp Dần (23.01.1974 – 10.02.1975) – Dương Nữ
Nhâm Dần (05.02.1962 – 24.01.1963) – Dương Nam
Nhâm Dần (05.02.1962 – 24.01.1963) – Dương Nữ
Mão
Ất Mão (11.02.1975 – 30.01.1976) – Âm Nam
Ất Mão (11.02.1975 – 30.01.1976) – Âm Nữ
Đinh Mão (29.01.1987 – 16021988) – Âm Nam
Đinh Mão (29.01.1987 – 16.02.1988) – Âm Nữ
Quý Mão (25.01.1963 – 12.02.1964) – Âm Nam
Quý Mão (25.01.1963 – 12.02.1964) – Âm Nữ
Tân Mão (06.02.1951 – 26.01.1952) – Âm Nam
Tân Mão (06.02.1951 – 26.01.1952) – Âm Nữ
Thìn
Bính Thìn (31.01.1976 – 17.02.1977) – Dương Nam
Bính Thìn (31.01.1976 – 17.02.1977) – Dương Nữ
Giáp Thìn (13.02.1964 – 01.02.1965) – Dương Nam
Giáp Thìn (13.02.1964 – 01.02.1965) – Dương Nữ
Mậu Thìn (17.02.1988 – 05.02.1989) – Dương Nam
Mậu Thìn (17.02.1988 – 05.02.1989) – Dương Nữ
Nhâm Thìn (27.01.1952 – 13.02.1953) – Dương Nam
Nhâm Thìn (27.01.1952 – 13.02.1953) – Dương Nữ
Tỵ
Ất Tỵ (02.02.1965 – 20.01.1966) – Âm Nam
Ất Tỵ (02.02.1965 – 20.01.1966) – Âm Nữ
Đinh Tỵ (18.02.1977 – 06.02.1978) – Âm Nam
Đinh Tỵ (18.02.1977 – 06.02.1978) – Âm Nữ
Kỷ Tỵ (06.02.1989 – 26.01.1990) – Âm Nam
Kỷ Tỵ (06.02.1989 – 26.01.1990) – Âm Nữ
Quý Tỵ (14.02.1953 – 02.02.1954) – Âm Nam
Quý Tỵ (14.02.1953 – 02.02.1954) – Âm Nữ
Ngọ
Bính Ngọ (21.01.1966 – 08.02.1967) – Dương Nam
Bính Ngọ (21.01.1966 – 08.02.1967) – Dương Nữ
Canh Ngọ (27.01.1990 – 14.02.1991) – Dương Nam
Canh Ngọ (27.01.1990 – 14.02.1991) – Dương Nữ
Giáp Ngọ (03.02.1954 – 23.01.1955) – Dương Nam
Giáp Ngọ (03.02.1954 – 23.01.1955) – Dương Nữ
Mậu Ngọ (07.02.1978 – 27.01.1979) – Dương Nam
Mậu Ngọ (07.02.1978 – 27.01.1979) – Dương Nữ
Mùi
Ất Mùi (24.01.1955.-.11.02.1956) – Âm Nam
Ất Mùi (24.01.1955 – 11021956) – Âm Nữ
Đinh Mùi (09.02.1967 – 29.01.1968) – Âm Nam
Đinh Mùi (09.02.1967 – 29.01.1968) – Âm Nữ
Kỷ Mùi (28.01.1979 – 15.02.1980) – Âm Namf
Kỷ Mùi (28.01.1979 – 15.02 1980) – Âm Nữ
Quý Mùi (04.02.1943 – 24.01.1944) – Âm Nam
Quý Mùi (04.02.1943 – 24.01.1944) – Âm Nữ
Tân Mùi (15.02.1991 – 03.02.1992) – Âm Nam
Tân Mùi (15.02.1991 – 03.02.1992) – Âm Nữ
Thân
Bính Thân (12.02.1956 – 30.01.1957) – Dương Nam
Bính Thân (12.02.1956 – 30.01.1957) – Dương Nữ
Canh Thân (16.02.1980 – 04.02.1981) – Dương Nam
Canh Thân (16.02.1980 – 04.02.1981) – Dương Nữ
Giáp Thân (25.01.1944 – 12.02.1945) – Dương Nam
Giáp Thân (25.01.1944 – 12.02.1945) – Dương Nữ
Mậu Thân (30.01.1968 – 16.02.1969) – Dương Nam
Mậu Thân (30.01.1968 – 16.02.1969) – Dương Nữ
Nhâm Thân (04.02.1992 – 22.01.1993) – Dương Nam
Nhâm Thân (04.02.1992 – 22.01.1993) – Dương Nữ
Dậu
Ất Dậu (13.02.1945 – 01.02.1946) – Âm Nam
Ất Dậu (13.02.1945 – 01.02.1946) – Âm Nữ
Đinh Dậu (31.01.1957 – 17.02.1958) – Âm Nam
Đinh Dậu (31.01.1957 – 17.02.1958) – Âm Nữf
Kỷ Dậu (17.02.1969 – 05.02.1970) – Âm Nam
Kỷ Dậu (17.02.1969 – 05.02.1970) – Âm Nữ
Quý Dậu (23.01.1993 – 18.02.1994) – Dương Nam
Quý Dậu (23.01.1993 – 18.02.1994) – Dương Nữ
Tân Dậu (05.02.1981 – 24.01.1982) – Âm Nam
Tân Dậu (05.02.1981 – 24.01.1982) – Âm Nữ
Tuất
Bính Tuất (02.02.1946 – 21.01.1947) – Dương Nam
Bính Tuất (02.02.1946 – 21.01.1947) – Dương Nữ
Canh Tuất (06.02.1970 – 26.01.1971) – Dương Nam
Canh Tuất (06.02.1970 – 26.01.1971) – Dương Nữ
Giáp Tuất (10.02.1994 – 30.01.1995) – Dương Nam
Giáp Tuất (10.02.1994 – 30.01.1995) – Dương Nữ
Mậu Tuất (18.02.1958 – 07.02.1959) – Dương Nam
Mậu Tuất (18.02.1958 – 07.02.1959) – Dương Nữ
Nhâm Tuất (25.01.1982 – 12.02.1983) – Dương Nam
Nhâm Tuất (25.01.1982 – 12.02.1983) – Dương Nữ
Hợi
Ất Hợi (31.01.1995 – 18.02.1996) – Dương Nam
Ất Hợi (31.01.1995 – 18 02 1996) – Dương Nữ
Đinh Hợi (02.01.1947 – 09.02.1948) – Âm Nam
Đinh Hợi (02.01.1947 – 09.02.1948) – Âm Nữ
Kỷ Hợi (08.02.1959 – 27.01.1960) – Âm Nam
Kỷ Hợi (08.02.1959 – 27.01.1960) – Âm Nữ
Quý Hợi (13.02.1983 – 01.02.1984) – Âm Nam
Quý Hợi (13.02.1983 – 01.02.1984) – Âm Nữ
Tân Hợi (27.01.1971 – 14.02.1972) – Âm Nam
Tân Hợi (27.01.1971 – 14.02.1972) – Âm Nữ

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Túi sưởi Mimosa phát nổ, một bệnh nhi bỏng nặng

Ngày 23/12,2011, bệnh nhân Nguyễn Thị Huyền, 8 tuổi, Thị Xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang vẫn đang điều trị tại Viện bỏng Quốc gia.

Cháu Huyền bị bỏng 15%, trong đó 3% bỏng sâu độ III, IV tại các vùng bẹn, mông và gần bộ phận sinh dục. Đây là lần đầu tiên Viện bỏng quốc gia tiếp nhận bệnh nhân bỏng do túi sưởi.

BS Nguyễn Băng Tâm, người điều trị chính cho bệnh nhân cho biết: Bệnh nhân nhập viện ngày 18/12. Có lẽ do khi bị bỏng cháu đang ngồi, nên nước sôi bắn vào bẹn, và ngấm trong đó nên vết bỏng những chỗ này sâu. Hiện tại những vết nông thì đã se, nhưng những chỗ bỏng sâu của bệnh nhân có thể sẽ phải phẫu thuật ghép da.

Theo người nhà bệnh nhân, ngày 17/12 tại nhà cháu Huyền, túi sưởi đa năng Mimosa đang được cắm điện, cháu Huyền ngồi gần đó thì bất ngờ túi sưởi vỡ khiến nước trong túi bắn vào.

P.Hằng. Theo Bee.net.vn

Chè kê - cháo kê (6 bài)

Bài 1. Cháo kê


Thông tin dinh dưỡng:

Kê ( Millet) là thực phẩm bổ dưỡng tốt nhất cho cơ thể. Kê từ trước đến nay đều được xứng danh là “món đầu đàn của ngũ cốc”. Người có thể chất ốm yếu, bệnh tật thường dùng kê để bồi bổ sức khoẻ.

Kê chứa 15% giá trị protein, một lượng cao chất xơ, vitamin B-phức tạp bao gồm niacin, Thiamin, và riboflavin, các axit amin thiết yếu methionine lecithin,, và một số vitamin E. Kê rất giàu khoáng chất sắt, magie.

Y học Trung Quốc cho rằng, hạt kê có ích cho ngũ tạng, đặc biệt là dạ dày (làm dày đường ruột, dạ dày).

Có một danh sư nổi tiếng thời nhà Thanh đã nói: “Hạt kê là dinh dưỡng tốt nhất cho sức khoẻ con người. Khi dùng hạt kê nấu cháo, dầu kê trong cháo có tác dụng tốt hơn cả canh nhân sâm”.

Đó là một số thông tin về hạt kê được tổng hợp từ nhiềuu nguồn trên Internet. Một thực phẩm rẻ, bổ, sẵn có, các bạn có thể bổ sung vào thực đơn ăn chay của mình.

Món cháo kê

Nguyên liệu (2 khẩu phần)
100 gram gạo, rửa sạch và để ráo
50 gram hạt kê, rửa sạch và để ráo
1,2 lít nước
Muối và tiêu, để nêm
Dầu mè (tùy thích), để nêm
Ngò (rau mùi)

Thực hiện

Cho gạo, hạt kê và nước vào trong một nồi tay cầm hoặc nồi thường. Để yên khoảng 1 giờ hoặc lâu hơn, nếu thích.
Nấu cháo sôi lên 15 phút. Vặn tắt lửa, đậy nắp và để yên khoảng 30 phút hoặc lâu hơn.
Nấu sôi cháo trở lại khoảng 10 phút trước khi dùng. Nêm với muối, tiêu và dầu mè.
Múc cháo vào từng tô, trình bày với ngò và dùng nóng.

Cháo/súp kê nấu với bí đỏ

Các bạn có thể dùng kê và bí đỏ nấu cháo/ súp. Kê nấu với bí đỏ - một món ăn làm vừa nhanh vừa bổ và ngon lành, tốt cho người bệnh tiểu đường. Có thể đãi kê sạch và rang lên để dành nấu bất cứ khi nào cần.

Bỏ hai thứ: bí đỏ, kê lẫn với nhau, nấu sôi độ 15 - 20 phút là có món xúp ngon lành, chỉ bỏ thêm duy nhất là muối.
Muốn có vị ngon ngọt hơn thì bỏ thêm vài lát hành tây!

Nguồn: http://hieuvathuong.net/showthread.php?463-Ch%C3%A1o-k%C3%AA

Bài 2. Giá trị dinh dưỡng của kê



Theo tây y thì kê là một cốc loại rất bổ dưỡng mà ăn vào lại không làm phì nộn con người. Chỉ một mình nó có thể cung cấp đầy đủ tất cả vitamin cần thiết cho con người, nhiều nhất là vitamin B1, B2, A,E, Protein, nó tốt không kém thịt cá. Các khoáng chất như vôi, phốt pho, mangan, sắt, đồng,… có rất nhiều so với các thức ăn khác. Nó còn chứa chất lecithine và choline tự do là thứ rất quí để bồi bổ óc não cho những người làm việc lao tâm, dùng nhiều về tinh thần, lý trí. Chất Choline trong kê còn có đặc tính ngăn ngừa cả bệnh cứng động mạch và điều tiết lại quân bình âm dương của thần kinh dinh dưỡng. Kê lại còn chứa axit glutamic là một chất làm tăng thêm trí nhớ cho con người.
Kê là một cốc loại dễ trồng mà giá trị dinh dưỡng lại rất cao. Phân chất, kê gồm có: 73% chất bột, 11,0 % chất đạm, 2% chất béo, 11% chất nước và rất nhiều sinh chất, khoáng chất cùng các vitamin bổ dưỡng cần thiết cho cơ thể con người.

Theo đông y, kê bổ trung ích khí, trừ được những chứng phiền khát. Cháo kê thông được tiểu tiện, chữa được chứng phiền khát vì dạ dày nóng quá.

Theo sự nghiên cứu của người Đức thì kê chữa được cả các bệnh đau ngực, bệnh đi tả và bệnh sốt.

Ở Trung hoa người ta rang hột kê để nấu nước làm thuốc giải nhiệt và trị bệnh kiết lỵ. Người ta cũng ủ men nấu thành rượu và dùng bột để làm bánh.

Cháo kê thường được dùng để nuôi các bệnh nhân đau yếu dạ dày. Hạt kê rang xay thành bột dùng làm bánh cho trẻ con trừ ghẻ, chốc, rôm, xảy…Trẻ con lưỡi sưng to nhai kê mớm cho nó ăn thì khỏi. Chảy máu cam (mũi) mãi không hết dùng bột kê nấu cháo ăn lành bệnh..

Theo giáo sư Ohsawa thì kê là một cốc loại rất dương có thể dùng hàng ngày dưới mọi hình thức: cà phê, bánh, cháo hoặc thay thế cơm rất tốt.

Không người Việt Nam nào không biết tới món bánh đa kê, có lẽ đây có thể gọi là món ăn cổ truyền đặc thù của người Việt cổ, và nó cũng là món ăn độc đáo và hấp dẫn từ người thường dân tới những người sang trọng khó tính cầu kỳ...

Bánh đa kê làm mát ruột gan và bồi bổ sức khoẻ nếu nó được làm từ bánh đa làm từ gạo lứt và khi nấu kê họ nấu nguyên toàn bộ 100 % kê, nhưng ngày nay kê đã được pha trộn nhiều thứ bột để cho thu nhiều lợi nhuận... và khi phết bánh đa kê họ còn rắc đường trắng "cho dễ ăn" mà không biết rằng ăn như thế làm giảm tính chất dưỡng sinh của bánh đa kê đi rất nhiều.

Ngày nay chúng ta chỉ còn được ăn loại bánh đa kê thứ thiệt tại vùng chùa Hương... ở đó họ không bỏ đường và bánh đa thì làm từ gạo. Tại Hà Nội chỉ còn lại "bóng dáng" của loại bánh đa kê thứ thiệt, rất dưỡng sinh đó mà thôi; bánh đa họ nướng loại bánh đa từ bột sắn...

Bài 3. Cháo kê thịt gà



Vật liệu:

- 200gr kê
- 1 con gà
- 1 củ hành tây
- hành lá, ngò lá, rau răm
- muối, bột niêm (tùy ý), tiêu

Phân lượng để nấu một nồi cháo cho 4 khẩu phần.

Cách làm:

1. 200gr kê, vo sạch, ngâm nước qua một giờ, trước khi nấu đổ ra rổ rá cho ráo.

2. 1 con gà sau khi làm sạch còn khoảng 1,3kg. Chặt gà làm bốn cho dễ nấu, luộc chín gà với khoảng hai lít nước + 100gr hành tây lột vỏ, chẻ bốn + 1 muỗng cà phê muối. Gà chín vớt ra để nguội, lóc lấy nạc và da gà, xé nạc gà tơi ra thành dạng sợi vừa, da gà tùy thích cắt sợi hay miếng nhỏ, để riêng. Cho xương vào lại nồi nước luộc, thêm khoảng một lít nước sôi, hầm nhỏ lửalấy khoảng 2, 5 lít nước dùng gà. Lược bỏ xương, xác hành qua một cái rây rồi lược lại nước luộc gà một lần nữa qua một túi vải thưa cho có nước trong đẹp nếu thích. (Tùy ý luộc gà bằng nước dừa tươi ngọt. Nếu có mỡ gà, để riêng, thắng lấy chút mỡ gà (tùy ý)). Lòng gà làm sạch, gan mề xắt mỏng, ruột non xắt khúc, ướp vào góc muỗng cà phê muối, ½ muỗng nhỏ tiêu. Xào chín lòng với chút dầu ăn hoặc mỡ gà.

3. Ít hành lá, ngò lá, lá rau răm cắt nhuyễn. Gia vị.

4. Cho kê vào nồi nước dùng gà, nấu như cách nấu chè nhưng cháo kê luôn nấu loãng chứ không sệt đặc như chè, khi nấu luôn nhớ canh nhỏ lửa và cách năm bảy phút lại khuấy đều tay mươi lăm giây, độ loãng của cháo thông thường là thấy kê nở và nổi bằng mặt nước là được, nếu cần thì châm thêm ít nước sôi. Tùy khẩu vị riêng nêm lại cháo với chút muối hay bột nêm nếu thích.

5. Trình bày món ăn: Cho lòng xào, nạc gà xé miếng, da gà cắt nhỏ ít nhiều vào cháo, khuấy đều. Hoặc dọn cháo riêng, nạc da riêng... để tùy thực khách sử dụng ít nhiều khi ăn. Khi múc cháo ra tô, rắc thêm hành ngò xắt nhỏ. Dọn kèm tiêu muối hoặc nước mắm nguyên chất, chanh ớt.

Cháo kê nên ăn khi còn nóng ấm vì cháo nguội thường đặc quánh lại. Nên dự trù trong trường hợp dùng món cháo kê cho tiệc tự phục vụ thì nên nấu loãng. Trong một thực đơn nặng nề mỡ thịt nếu có món cháo kê thịt gà xé nhỏ sau cùng thường được thực khách tán thưởng.

Theo Nội Trợ

Bài 4. Chè Kê 1



Nguyên liệu:
- 200gr kê
- 100gr đậu xanh
- 250gr đường
- Bánh đa nướng

Cách làm:

Đậu xanh ngâm trước 10 phút, nấu mềm, tán nhuyễn. Kê đãi sạch, cho một lượng nước vừa phải vào nấu đến khi kê nở, thấy khuấy nặng tay là được. Cho đậu xanh vào trộn chung với kê. Thêm đường vào nấu đến khi sôi đều và nổi hạt kê là được. Ăn kèm với bánh đa nướng.

Bài 5. Chè Kê 2



Nguyên liệu:

- 100gr kê
- 250gr đường
- Bánh đa

Cách làm:

1. 100gr kê vo sạch, cho vào nồi cỡ vừa, đổ vào khoảng một lít nước ngâm kê chừng một giờ. (chọn cỡ nồi sao cho mực nước cao hơn kê khoảng 4 -5 phân,tương đương ba lóng tay người lớn).

2. Cho nồi kê lên bếp mở lửa, canh chừng vừa chớm sôi thì hạ lửa tối đa chỉ để cho nước sôi váng hơi lăn tăn rất nhẹ, dùng đũa gỗ hoặc vá muỗng kim loại khuấy nhẹ trong mươi giây (đừng dùng dụng cụ muỗng đũa bằng nhựa mélanin để khuấy, món ăn sẽ bị dây mùi nhựa). Để sôi nhẹ qua năm ba phút rồi lại khuấy tiếp mươi lăm giây nữa, cứ như vậy cho đến khi xong. Thăm chừng thấy hột kê nở ra và mềm, thử bằng cách múc vài hột, thổi nguội rồi cho vào giữa hai đầu ngón tay vo nhẹ thấy nát mịn là được. Cho vào khoảng 250gr đường hoặc tùy thích gia giảm đôi chút, khuấy đều tay cho đến khi thấy tan đường hoàn toàn. Thăm chừng cho kê cạn nước dần và đặc lại từ từ, tùy thích để chè đặc ít nhiều nhưng thông thường là thử độ đặc của chè bằng cách dùng cái muỗng nhỏ múc ít chè rồi đổ ra lại thấy chè quánh hẳn và nhểu chậm ra như hồ đặc là được.

3. Tùy thích dùng ít vani, nước hoa bưởi... cho vào nồi kê để tạo mùi nhưng nếu có kê mới thì không ai dùng hương liệu cho vào chè cả vì kê mới, nấu chè rất thơm.

4. Thực phẩm phụ ăn kèm chè kê:- Bánh tráng mè nướng dòn.- Đậu xanh tán: Dùng chừng 200gr đậu xanh cà đã đãi vỏ, vo sạch, nấu chín như nấu cơm cho thật ráo hột, bới ra để nguội dùng máy xay cắt có dao hình chữ S làm cho mịn nhuyễn rồi tải mỏng ra để cho ráo ở dạng hơi khô để có thể rắc được. Bếp VN hay làm đậu tán theo cách cổ truyền là sau khi đậu chín, cho vào cối giã cho mịn nhuyễn rồi dùng tay vo thành viên tròn thật chắc, để nguội và khô, cần dùng bao nhiêu thì lấy dao mỏng bén cắt gọt vào viên đậu để lấy đậu tơi nhuyễn ra bấy nhiêu.- Cơm dừa khô nạo sợi mỏng trụng qua nước sôi để ráo.

5. Trình bày món ăn: Đa số người vùng Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế) hay múc chè kê ra chén nhưng khi ăn lại dùng bánh tráng mè nướng bẻ nhỏ và cầm miếng bánh tráng xúc chè thay cho cái muỗng. Trong khi nhiều người Bắc lại thích nấu chè kê thật đặc, khi ăn, bẻ bánh tráng nướng ra thành miếng nhỏ, phết chè lên, rắc thêm ít đậu xanh tán hay cơm dừa nạo rồi đặt một miếng bánh tráng khác lên kẹp lại. Đây là cách ăn mà trẻ em rất thích.

Note: Phân lượng sử dụng chỉ tượng trưng cho lượng kê và nước trung bình, tùy ý nấu ít nhiều để gia giảm. Dù nấu ít nhiều cũng đừng dùng nồi qua lớn; nếu nấu nhiều, nồi rộng, khó khuấy cho đều tay, kê dễ bị sít nồi. Luôn canh nhỏ lửa khi nấu kê và nói chung, nấu kê như kho cá - không gấp được mà phải chậm, lâu.

Theo Nội Trợ

Bài 6. Cháo kê hầm ức gà



Nguyên liệu:

200g ức gà
50g hạt kê
Vài cọng hành ngò
2 bát cháo trắng
1 thìa cà phê hạt nêm
1/2 thìa cà phê dầu gấc

Thực hiện:

Ức gà rửa sạch, để nguyên miếng
Hạt kê vo sạch, để ráo. Hành ngò thái nhỏ
Đun sôi cháo trắng, cho ức gà vào nấu khoảng 15 phút. Vớt gà ra tô, xé nạc. Cho hạt kê và thịt gà vừa xé vào nồi cháo, nêm hạt nêm vừa ăn, đun tiếp khoảng 10 phút là được
Tắt bếp, cho dầu gấc vào, khuấy đều. Múc cháo ra tô, rắc thêm hành ngò lên trên.

Theo Monngonvietnam

Ăn uống cân bằng

Hội nghị quốc tế về sức khoẻ ở Victoria (Úc) đưa ra một tuyên ngôn gồm có ba vấn đề: Ăn uống cân bằng, Vận động có ôxy & Trạng thái tâm lý tốt, hoàn toàn giống với tư tưởng thiền. Giáo sư y khoa Tề Quốc Lực (người Mỹ gốc Hoa, đã từng làm việc cho tổ chức y tế thế giới -WHO nhiều năm) triễn khai ba vấn đề trên như sau:

1. Ăn uống cân bằng.

Lâu nay nhiều người nghĩ rằng việc giữ gìn sức khỏe thì có gì mà phải lo lắng, chẳng qua ngủ sớm dậy sớm thì người sẽ khoẻ mạnh chứ gì. Xin thưa với bạn, cách đây một trăm năm thì có thể nói vậy được, chứ ngày nay nói vậy thì thật là thiếu hiểu biết, có nhiều điều đã thay đổi.
Nói ăn uống cân bằng là nói hai chuyện: ăn và uống.

Thức uống

Ở các hội nghị quốc tế người ta đã định ra 6 loại đồ uống bảo vệ sức khỏe:

- Trà xanh;
- Rượu vang đỏ;
-Sữa đậu nành;
-Sữa chua (nên chú ý , người ta không nói sữa bò);
-Canh xương;
- Canh nấm.

* Canh nấm có thể nâng cao công năng miễn dịch. Một văn phòng có người luôn bị cảm, có người không ốm bao giờ, vì sao vậy? Vì công năng miễn dịch khác nhau. Uống canh nấm có thể nâng cao sức miễn dịch, cho nên đó là sản phẩm giữ gìn sức khỏe.

* Trong canh xương có chất uyển giao (một chất keo), uyển giao kéo dài tuổi thọ . Ðừng coi thường canh xương .

* Sữa chua duy trì cân bằng vi khuẩn , có nghĩa là vi khuẩn có ích thì sinh trưởng, vi khuẩn có hại thì tiêu diệt, cho nên ăn sữa chua thì có thể ít mắc bệnh. Ở châu Âu, sữa chua rất phổ biến, nhiều cô gái chúng ta thích ăn sữa chua, nhưng họ không hiểu vì sao. Ở các xứ Á châu, lượng tiêu thụ sữa chua rất thấp, còn lượng tiêu dùng sữa bò lại rất lớn. Bản thân sữa bò, tất nhiên không phủ định tác dụng của nó, nhưng nó kém xa sữa chua.

* Trà xanh Ngày nay rất nhiều người biết uống trà, nhưng thanh niên ít uống. Vì sao trà xanh có tác dụng bảo vệ sức khỏe?

Thứ nhất trong trà xanh có chứa chất trà đà phân , mà trà đà phân có thể chống ung thư. Nhật Bản làm một cuộc tổng điều tra rất tốt. Sau tổng điều tra, họ nói người trên 40 tuổi chẳng ai không có tế bào ung thư trong cơ thể. Vì sao có người mắc ung thư, có người không? Điều này có liên hệ tới việc uống trà xanh. Nếu anh uống mỗi ngày 4 chén trà xanh, thì tế bào ung thư không chia cắt, mà dù có chia cắt cũng muộn lại 9 năm trở lên. Cho nên ở Nhật Bản, học sinh tiểu học hàng ngày đi học đều uống một vài chén trà xanh.

Thứ hai xin chú ý, trong trà xanh có chứa fluor, nó chẳng những có thể làm bền răng, mà còn chữa được sâu răng, diệt vi khuẩn. Sau bữa ăn 3 phút, đốm khuẩn răng đã xuất hiện. Hiện nay rất nhiều người chúng ta răng không tốt, chẳng những không súc miệng bằng nước trà, mà nước trắng cũng không, vì thế nên có người mới 30 tuổi đã bắt đầu rụng răng, 50 tuổi thì rụng hết.

Thứ ba, bản thân trà xanh chứa chất trà cam ninh , chất này nâng cao độ bền huyết quản, khiến huyết quản khó vỡ. Rất nhiều người bị mạch máu não bất ngờ , trong bệnh viện cứ 4 người chết thì có 1 người xuất huyết não. Xuất huyết não thì chưa có cách chữa, kỵ nhất là tức giận, hễ tức giận đập bàn trợn mắt, mạch máu não đứt ngay. Các vị ạ, đến tuổi các vị nên uống sớm đi, đến lúc các vị có đập bàn trợn mắt vài cái thì cũng không lo.

* Rượu vang đỏ Vốn là trên vỏ quả nho đỏ có một thứ, gọi là nghịch chuyển thuần (cồn chuyển ngược). Chất này có tác dụng chống suy lão, còn là thuốc chống ôxy hóa, người hay uống vang đỏ thì ít mắc bệnh tim.. Nó còn có thể giúp ta phòng ngừa tim đột nhiên ngừng đập, chúng ta gọi là ngừng đột ngột. Trong trường hợp nào tim có thể ngừng đập? Một là có bệnh tim, hai là tăng huyết áp, ba là mỡ máu cao. Mỡ máu cao nguy hiểm ở chỗ nào? Tim có thể đột nhiên ngừng đập. Có một chàng trai 20 tuổi, máu của cậu ta lấy ra có dạng bùn, hết sức nguy hiểm. Hỏi cậu ta, cậu ta bảo ăn nhiều chất bổ quá. Không phải cậu ta ăn đồ bổ nhiều quá mà là ăn quá bất hợp lý.

Rượu vang đỏ còn có một tác dụng nữa là hạ huyết áp, hạ mỡ máu. Vang đỏ có mấy tác dụng lớn như thế, nên ở nước ngoài bán rất chạy. Nhiều người sẽ hỏi: chẳng phải cấm rượu sao? Tổ chức y tế thế giới nói rằng cai thuốc lá, hạn chế rượu , chứ có nói cấm rượu đâu, hơn nữa còn nói rõ hạn lượng rượu: rượu vang nho mỗi ngày không quá 50-100cc, rượu trắng mỗi ngày không quá 5-10cc, bia mỗi ngày không quá 300cc. Nếu anh vượt quá khối lượng đó thì sai lầm, không quá lượng đó thì tốt.. Có một nữ sĩ hỏi: Tôi không biết uống rượu thì làm thế nào? Chị không biết uống rượu, há lại không biết ăn nho sao?

Ăn nho há lại không thể ăn cả vỏ sao? Nhưng nho trắng không có nghịch chuyển thuần , bạn ăn cũng vô ích. Bây giờ ở châu Âu đã có bánh ngọt bằng nho đỏ rồi. Nho đỏ rửa sạch đi mà ăn, nuốt cả vỏ rất thích, chả sao cả. Cho nên người có tiền uống vang đỏ, người không có tiền ăn nho đỏ không bỏ vỏ đều giữ được sức khỏe như nhau. Còn có người bắt bẻ . Tôi không có tiền thì làm thế nào? Xin nói với các bạn, ở hội nghị quốc tế người ta đã điều tra rồi, các khu vực trường thọ trên toàn thế giới đều ở vùng ít tiền, đều là những vùng nghèo. Như vậy thì có lạ không? Kẻ có tiền ngày ngày nhậu nhẹt tiệc lớn nhỏ, gà vịt thịt cá, thì đều bụng phệ, bằng đầu bằng đuôi , những người như vậy rất ít người sống được quá tuổi 65.

Thức ăn

Mọi người đều biết rằng ngũ cốc, đậu và rau là rất tốt. Người ta nói Mac Donald là thực phẩm rác, vì nó là một loại thực phẩm kích thích lệch, hậu quả là người bằng đầu bằng đuôi, cứ như một bó hành lý. Người ta sợ ăn vì ăn xong lại phải đi giảm béo. Chúng ta nên biết đó là thức ăn kích thích lệch, không phù hợp với tập quán ẩm thực của con người.

*Các loại cốc :

- Ngô ( bắp)

Ở các hội nghị quốc tế người ta xưa nay không nói đến gạo, bột mì trắng, cũng không nói Mac Donald. Trong loài cốc trước tiên nói đến ngô, gọi đó là cây vàng . Lai lịch của ngô, hội y học Mỹ đã có điều tra phát hiện rằng người Mỹ nguyên thủy, người Indian không ai bị tăng huyết áp, không ai xơ vữa động mạch. Là do họ ăn ngô. Về sau phát hiện ra trong ngô già có chứa nhiều chất noãn lân chi nên không xảy ra tăng huyết áp và xơ vữa động mạch. Từ đó về sau, nước Mỹ đã thay đổi, châu Mỹ, châu Phi, châu Âu, Nhật Bản, Hồng Kông, Quảng Châu của Trung Quốc, sáng đều ăn bánh ngô. Bây giờ nhiều người ăn noãn lân chi để làm gì? Chính là hy vọng không bị xơ vữa động mạch.. Nhưng họ không biết rằng trong ngô già có rất nhiều, không phải tốn tiền nhiều.

- Kiều mạch (Oats)

Tại sao nhắc đến kiều mạch? Người ta hiện nay thường có ba cao , là huyết áp cao, mỡ máu cao, đường máu cao. Kiều mạch là ba hạ , hạ huyết áp, hạ mỡ máu, hạ đường máu. Trong kiều mạch có chứa 18% cellulose, người ăn kiều mạch không bị viêm dạ dày đường ruột, ung thư trực tràng, ung thư kết tràng . Trong số những người ngồi văn phòng mắc bệnh, có đến 20% là ung thư trực tràng, ung thư kết tràng.

- Yến mạch (Rolled Oats, thị trường dưới nhãn hiệu Quaker Oats ).
Nếu bị tăng huyết áp, nhất định phải ăn yến mạch, cháo yến mạch, yến mạch

- Các loại khoai

Khoai lang trắng, khoai lang đỏ, củ từ, khoai tây. Những thứ này các hội nghị quốc tế đã nhắc đến. Vì sao? Vì chúng nó có ba hấp thu : hấp thu nước, hấp thu mỡ và đường, hấp thu độc tố. Hấp thu nước, làm trơn đường ruột, không bị ung thư trực tràng, ung thư kết tràng. Hấp thu mỡ và đường, không mắc bệnh tiểu đường. Hấp thu độc tố, không mắc chứng viêm dạ dày, đường ruột. . Mong mọi người ăn nhiều khoai vào, trong lương thực chính nên có các loại khoai lát. Nó có thể hạ huyết áp, hạ mỡ máu.

- Kê (Millet : hạt nhỏ nhưng lớn hơn hạt mè)

Bản thảo cương mục nói rất rõ: Kê có thể trừ thấp, kiện tỳ, trấn tĩnh, an miên, (ngủ yên); ích lợi lớn như thế mà anh không ăn? Bây giờ rất nhiều người ngồi văn phòng, đêm mất ngủ, mắc các chứng ức uất, chứng chức năng thần kinh, có người uống đến 8 viên thuốc an thần vẫn không ngủ được. Cứ ăn cháo kê là tinh thần phấn chấn, tối một bát cháo kê, ngủ khò khò. Chữa bệnh bằng ăn tốt hơn chữa bệnh bằng thuốc.

Vì sao chúng ta không giải quyết vấn đề bằng cái ăn, mà cứ nhất định phải dùng thuốc! Mười thứ thuốc thì chín thứ là độc, chưa từng nghe nói dùng thuốc để giữ gìn sức khỏe. Cần phải nói rõ: không nên uống thuốc bừa bãi, chỉ dùng thuốc trong thời gian ngắn, nếu bớt bệnh rồi thì nhanh chóng ngừng thuốc.

* Ðậu

Đậu nành là hoa của dinh dưỡng, là vua các loại đậu. Trong đậu nành có ít nhất 5 loại chất chống ung thư, đặc biệt là di hoàng đồng, chất này có thể phòng và chữa ung thư tuyến vú, ung thư trực tràng và ung thư kết tràng. Cho nên đối với người da vàng chúng ta thì thích hợp nhất là sữa đậu nành.

Sữa bò tốt hay sữa đậu nành tốt? Ở hội nghị quốc tế của Liên Hợp Quốc người ta nói, trong sữa bò có nhiều nhũ đường, mà hai phần ba số người trên thế giới không hấp thu được nhũ đường, người da vàng ở châu Á có 70% số người không hấp thu được nhũ đường. Sữa đậu nành có ưu điểm gì? Trong sữa đậu nành chứa quả đường, quả đường hấp thu 100%.

* Rau

- Cà-rốt.

Sách Bản thảo cương mục của Trung Quốc viết đó là loại rau dưỡng mắt. Tối nhìn không thấy, đặc biệt là chứng quáng gà, ăn là khỏi. Nó bảo vệ niêm mạc, ăn cà-rốt lâu ngày thì ít bị cảm mạo. Người Mỹ cho cà-rốt là thứ rau làm đẹp người, dưỡng tóc, dưỡng da, dưỡng niêm mạc. Người thường xuyên ăn cà-rốt quả là đẹp từ trong ra ngoài. Khái niệm đẹp người này phải là trong ngoài hài hòa. Nhiều cô gái của chúng ta mắc lừa, các cô ấy son phấn vào còn dễ coi, đến khi bỏ son phấn đi còn khó coi hơn ban đầu.

Người Mỹ rất chú ý điều này, họ ăn cà-rốt đều. Thứ nhất, nó dưỡng niêm mạc, ít bị cảm mạo. Thứ hai, nó đẹp khỏe mạnh. Thứ ba, nó có chút tác dụng chống ung thư, hơn nữa rất tốt cho mắt. Châu Âu đã có bánh ngọt cà-rốt. Ở nhiệt độ cao, chất bổ trong cà-rốt không bị giảm sút.

- Bí đỏ.

Nó kích thích tế bào tụy, sản sinh insulin. Cho nên người thường xuyên ăn bí đỏ rất ít mắc bệnh tiểu đường. Trong các loại rau còn cần nhắc đến khổ qua (mướp đắng). Tuy nó đắng, nhưng nó tiết ra insulin, người thường ăn mướp đắng cũng không bị tiểu đường. Bí đỏ, khổ qua, người ở lứa tuổi chúng ta nhất định phải ăn luôn.

- Cà chua.

Ở Mỹ, hầu như gia đình nào cũng trồng cà chua, ăn cà chua, mục đích là để khỏi mắc ung thư. Đó là điều mới được biết đến 5, 6 năm nay. Ăn cà chua không mắc bệnh ung thư, bạn đã biết chưa? Nhưng không phải ăn cà chua một cách tùy tiện. Trong cà chua có một chất gọi là chất cà chua , nó kết hợp chặt với protein làm một, xung quanh có cellulose bao bọc, rất khó ra. Cho nên phải làm nóng lên, nóng đến mức nhất định, nó mới ra được. Xin mách các bạn, cà chua xào trứng gà là đáng giá nhất. Và canh cà chua, hoặc canh trứng gà cà chua cũng rất tốt. Cà chua ăn sống không chống được ung thư, xin mọi người nhớ cho.

- Tỏi.

Tỏi là vua chống ung thư. Có người nói ngay: cái món đó phải ăn nóng. Sao cái gì bạn cũng muốn ăn nóng? Xin thưa với các bạn: tỏi đun nóng lên thì là 0! Có một người Sơn Đông, rất thích ăn, cứ bóc từng nhánh mà ăn, còn nói rằng ăn tỏi không bị ung thư, nhưng chẳng mấy chốc anh ta bị ung thư trước. Nguyên nhân là gì? Xin thưa các vị, trước hết phải thái nhánh tỏi thành từng lát, để từng lát trong không khí độ 15 phút, sau khi nó kết hợp với dưỡng khí mới sản sinh ra chất tỏi (đại toán tố).

Bản thân tỏi không chống được ung thư, đại toán tố mới chống ung thư, hơn nữa là vua chống ung thư. Hôm nọ tôi thấy có người ăn tỏi, anh ta lấy một bát mì, rồi nhanh chóng bóc tỏi ra, ăn từng nhánh tỏi, không đầy 5 giây đồng hồ đã ăn xong. Thậm chí không đến 5 giây! Ăn như vậy không có ích gì hết. Nếu sợ tỏi có mùi, thì ăn một quả sơn tra, nhai nắm lạc rang, hoặc ăn chút lá chè là hết mùi ngay. Ở nước ngoài tuần nào người ta cũng ăn, sao chúng ta lại không ăn!

- Mộc nhĩ đen (nấm mèo).

Mộc nhĩ đen có tác dụng gì? Bây giờ cứ đến Tết, người chết vì nhồi máu cơ tim ngày một nhiều, càng ngày càng có nhiều người chết trẻ, thậm chí ở cả tuổi 30! Vì sao đến Tết chết nhiều? Có 2 nguyên nhân, một là máu đặc cao ngưng thể chất , tức là mỡ máu cao. Các vị nhớ cho, người máu đặc gọi là cao ngưng thể chất .

Người cao ngưng thể chất cộng thêm thức ăn cao ngưng, cho nên vào dịp Tết người chết vì nhồi máu cơ tim đặc biệt nhiều, không kể tuổi nào. Chết nhồi máu cơ tim tuy không có cách gì chữa được, nhưng hoàn toàn có thể dự phòng. Có bác sĩ khuyên bạn uống aspirin, vì sao? Có thể khiến máu không đặc, không bị nhồi máu cơ tim. Nhưng hậu quả là gì? Hậu quả của việc uống nhiều aspirin là đáy mắt xuất huyết. Bây giờ rất nhiều người xuất huyết đáy mắt. Như vậy không nên uống aspirin nữa. Hiện nay ở châu Âu không uống aspirin nữa rồi. Vậy thì làm thế nào?

– Ăn mộc nhĩ đen.

Mộc nhĩ đen (nấm mèo) có hai tác dụng, trong đó có một là khiến máu không đặc lại. Tác dụng này của mộc nhĩ đen là do một chuyên gia bệnh tim của Mỹ phát hiện, ông ta đã đoạt giải Nobel. Sau khi ông ta phát hiện, tất cả người châu Âu, người có tiền và có địa vị đều ăn mộc nhĩ đen, chứ không uống aspirin nữa. Người như thế nào là cao ngưng thể chất ? Xin trả lời là người thấp, to, béo đặc biệt là phụ nữ ở thời kỳ chuyển đổi tuổi. Hơn nữa người thuộc nhóm máu AB càng dễ bị máu đặc cao ngưng. Và cổ càng ngắn thì càng dễ bị.

Thứ nhất là đừng ăn đồ biển nhiều, thứ hai nên uống một ít trà ngon, hoạt huyết tiêu ứ; thứ ba là nhất thiết chớ tức giận, hễ tức giận là máu đặc lại. Uống rượu trắng cũng dễ đặc máu, muốn uống thì uống vang đỏ, không quá 100ml. Nếu cho anh ăn lạc (Đậu phọng), nhất thiết đừng ăn, mà có ăn thì bóc vỏ đi. Có người hỏi: Cái vỏ lụa ấy chẳng phải có dinh dưỡng sao? Ai nói vậy, xin nói với các vị, vỏ lạc không có dinh dưỡng, nó chỉ có thể trị huyết ngưng phiến, nâng cao huyết tiểu bản, dùng để cầm máu. Người trung niên và người già chúng ta không nên ăn.

Và xem tivi phải chú ý, tivi hay thì xem một lát, tivi dở thì đừng xem. Vì sao? Vì ngồi lâu, độ ngưng huyết sẽ lên cao. Người lùn, to, béo, không có cổ, lại đang thời kỳ chuyển đổi tuổi, lại nhóm máu AB ăn đồ biển bừa bãi, rồi lại tức giận, lại uống rượu trắng, xong rồi ăn lạc không bóc vỏ, người như vậy mà không chết vì nhồi máu cơ tim, thì là điều lạ ..

- Phấn hoa (Pollen : chỉ bán trong các tiệm dược thảo).

Tổng thống Reagan từng một lần bị bắn trọng thương, lại đã một lần bị u ác tính, ông ta đã cao tuổi như vậy vẫn sống khỏe, chỉ có điều mắc chứng lú lẫn của người già. Chính là phấn hoa đã có tác dụng rất lớn cho cơ thể ông. Bây giờ ở châu Âu, châu Mỹ đều thịnh hành phấn hoa. Võ Tắc Thiên đã ăn phấn hoa, Từ Hi thái hậu cũng ăn phấn hoa.

Mọi người đều biết, phấn hoa là tinh tử của thực vật, nó thai nghén sự sống, dinh dưỡng rất phong phú, là cái tốt nhất trong thực vật. Cổ đại đã có rồi, nhưng chúng ta quên mất. Các vị đừng mua phấn hoa ở ngoài phố, phấn hoa bán ngoài phố có vỏ cứng, chưa phá vách. Phá vách cần có xử lý khoa học kỹ thuật cao. Thứ hai, phấn hoa mọc dại, dễ ô nhiễm, phải sát trùng. Thứ ba, nó là protein, phải thoát mẫn. Phấn hoa phải có 3 điều này mới dùng được: xử lý, tiêu độc, thoát mẫn. Phấn hoa ở Nhật Bản được dùng nhiều lắm, ở tuổi nào cũng dùng nó để làm đẹp. Người mẫu ở Pháp không ai không dùng. Tài liệu ghi chép cho biết, tỷ lệ chữa bệnh của phấn hoa là 97%.

Nếu dùng phấn hoa chữa không khỏi thì thuốc cũng không giải quyết được, cuối cùng công năng thận suy kiệt, đái ra máu, rồi u thận. Cho nên phải chữa trị sớm chứ đừng chờ đến công năng thận suy kiệt. Lại còn chứng rối loạn đường ruột, phụ nữ mắc nhiều, bí đái có tính chất tập quán. Rất nhiều người uống thuốc đi ngoài mà mắc ung thư trực tràng, ung thư kết tràng. Phấn hoa có một tên gọi là cảnh sát đường ruột, sau khi ăn phấn hoa, cảnh sát có thể duy trì trật tự đường ruột. Thứ ba là nó làm đẹp khỏe mạnh, duy trì thể hình. Ba tác dụng lớn của phấn hoa không thể coi thường.

* Thức ăn động vật

Người ta nói ăn động vật bốn chân, không bằng ăn con hai chân, mà ăn con hai chân không bằng ăn con nhiều chân. Nếu trong bữa ăn có cả thịt lợn và thịt dê thì ăn thịt dê; có thịt dê và thịt gà thì ăn thịt gà, có gà và cá thì ăn cá, có cá và tôm thì ăn tôm. Đó không phải là làm khách. Động vật càng nhỏ thì protein càng tốt.

Dinh dưỡng học đại chúng chỉ xem con vật to hay nhỏ; đem phân tử thức ra thì người ta không hiểu. Chưa nói con chuột. Ở hội nghị quốc tế người ta nói protein của bọ chét là tốt nhất. Con bọ chét, đừng thấy nó nhỏ, nó có thể nhảy cao hơn 1 mét, anh có tin không.. Nếu phóng đại nó lên bằng cơ thể con người, thì nó có thể nhảy lên đến mặt trăng ấy chứ! Cho nên đã có mấy bác sĩ Mỹ đang nghiên cứu làm thế nào ăn được bọ chét.

Bây giờ tổ chức WHO đề nghị mọi người ăn nhiều gà và cá. Vậy sao không khuyến nghị ăn tôm? Không phải là không khuyến nghị, mà là tôm đắt quá, khó phổ cập. Nếu có tôm, thì ăn tôm là tốt. Vài con tôm đủ nhiều protein hơn là ăn đầy một bụng thịt bò.

Cá thì dễ phổ cập hơn. Protein của cá một giờ là hấp thu được, tỷ lệ hấp thu là 100%, còn protein thịt bò phải 3 tiếng đồng hồ mới hấp thu được. Cá đặc biệt thích hợp cho người già nhất là người cơ thể suy nhược. Tất nhiên là tôm còn tốt hơn cá. Quốc tế đã điều tra, vùng tuổi thọ nổi tiếng nhất toàn thế giới là Nhật Bản, vùng tuổi thọ của Nhật Bản là ven biển, mà ven biển tuổi thọ cao nhất là địa phương ăn cá. Đặc biệt là ăn cá bé, tôm bé, nên nhớ phải ăn cả con cá ( cả đầu lẫn đuôi), vì có chất hoạt tính, mà chất hoạt tính thì ở đầu và ở bụng cá bé, tôm bé. Đấy là khoa học, chứ không phải mua cá cứ chọn con to là tốt.

Còn một nguyên tắc ăn nữa là ăn phải nắm vững lượng, chứ không phải ăn càng nhiều càng tốt. Trên quốc tế có quy định: ăn no 7 phần 10, suốt đời không đau dạ dày, ăn 8/10 là tối đa, nếu ăn no 10/10 thì 2/10 kia vô ích. Cho nên quốc tế khuyến nghị tỷ lệ vàng là 0,618: lương thực phụ 6, lương thực chính 4; lương thực thô 6, lương thực tinh 4; thực vật 6, động vật 4. Cân bằng vật chất có một quy luật . Trẻ sinh ra cho đến 5 tháng ăn sữa mẹ là tốt nhất, ngoài 5 tháng sữa mẹ cũng không đủ, cần thêm 42 loại thức ăn trở lên.

Người ta đến tuổi già lại càng khó. May thay có một bác sĩ người Pháp tên là Climent, khi du lịch sang châu Phi thấy người ở hồ đầm lớn châu Phi khỏe mạnh sống lâu hơn chúng ta. Họ ăn cái gì? Ăn rong biển, phơi khô rồi làm bánh bao ăn, sau đó uống canh rong biển. Bác sĩ ấy đem về Paris thí nghiệm, thì ra là rong biển, rong xoắn ốc. Rong xoắn ốc này phát hiện năm 1962, phát hiện này làm xôn xao cả thế giới. Vì sao? Một gam nó bằng 1..000 gam tổng hợp tất cả các loại rau, dinh dưỡng đặc biệt phong phú, rất toàn diện, phân bố dinh dưỡng rất cân bằng, hơn nữa là thức ăn kiềm tính. Ở Nhật Bản mỗi năm họ tiêu thụ 500 tấn rong xoắn ốc, họ đi du lịch sang Trung Quốc người nào cũng mang theo. 8 gam rong xoắn là có thể duy trì sự sống 40 ngày. Ngoài ra nó rất quan trọng đối với một số bệnh như tim mạch, tăng huyết áp, tăng mỡ máu, tiểu đường…

Ưu điểm lớn nhất của rong xoắn là khiến cho bệnh nhân tiểu đường không bị biến chứng, có thể ăn uống như người bình thường. Bệnh nhân tiểu đường thiếu năng lượng, lại không được ăn đường, rong xoắn là đường khô, hấp thu đường khô vào là có năng lượng. Bệnh nhân tiểu đường, đường máu không ổn định, sau khi dùng rong xoắn có thể dần dần ngừng thuốc, sau đó dần dần ngừng rong xoắn, cuối cùng khống chế bằng ăn mềm. Đối với bệnh viêm dạ dày, loét dạ dày, rong xoắn có chất diệp lục, có tác dụng khôi phục đối với niêm mạc dạ dày.

Rong xoắn còn có tác dụng phòng bức xạ. Khi trạm điện hạt nhân của Liên Xô bị nổ, chuyên gia Nhật Bản đi cứu, mang theo rong xoắn, tác dụng chống bức xạ của nó rất mạnh. Nhưng có mấy cách có thể dự phòng: thứ nhất là uống trà xanh; thứ hai là ăn rau xanh, cà rốt; thứ ba là ăn rong xoắn; thứ tư ăn tảo phục khang. Tảo phục khang là tốt nhất. Tùy theo điều kiện kinh tế của mình mà chọn lấy một cách, thực sự không được thì ăn rau xanh, cà rốt. Bức xạ thì ai cũng có thể tiếp xúc. Quốc tế đã từng cảnh cáo: nhất thiết chớ để đồ điện trong phòng ngủ. Nhất là lò vi sóng đối với chúng ta nguy hại lớn nhất, trong vòng 7 mét nó có thể bức xạ đến chúng ta. Và các loại đồ điện không nên mở cùng một lúc. Vừa có tivi, vừa có tủ lạnh, lại vừa có lò vi sóng, bạn làm thức ăn ngay bên cạnh, thì mắc bệnh ung thư là không oan uổng gì.

Nguồn: chauxuannguyen.wordpress.com

Nhận biết hội chứng đau vai gáy, bàn tay, ngón tay

Đau vai gáy, bàn tay và ngón tay bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau thường phổ biến ở người cao tuổi (NCT). Phát hiện và điều trị sớm cũng như áp dụng các biện pháp phòng hội chứng này là rất cần thiết...

Nguyên nhân của hội chứng vai gáy

Hội chứng đau vai gáy, bàn tay, ngón tay có liên quan mật thiết với hiện tượng rối loạn vận mạch và thần kinh cánh tay. Hệ thống vận mạch của chi trên chạy từ nách xuống tận cùng các đầu ngón tay, tập trung chủ yếu là vùng nách và lòng bàn tay. Khi hệ thống này bị rối loạn do xơ cứng mạch máu, tắc mạch hoặc bán tắc mạch máu làm cho máu khó lưu thông sẽ gây nên hiện tượng phù nề, nhất là vùng nách và gan bàn tay, nơi tập trung nhiều mao mạch nhất. Ngoài ra, các rễ thần kinh xuất phát từ mọi khe khớp của đốt sống cổ, nếu bị chấn thương (do thoái hoá đốt sống cổ, hoặc do chấn thương cơ học hoặc cả hai) cũng làm rối loạn cảm giác gây nên hội chứng tê bì vai gáy, bàn tay, ngón tay.

Biểu hiện điển hình của hội chứng vai gáy là đau và tê bì. Khớp vai đau nhiều ở giai đoạn đầu, đau nhức buốt nhưng cơn đau ngắn. Khi bệnh đã kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng thì cơn đau kéo dài lâu hơn, nhất là khi khớp vai đã bị xơ hoá, cứng khớp làm hạn chế vận động hoặc vận động rất khó khăn. Bàn tay và ngón tay có thể bị sưng nề do máu không lưu thông được. Sưng nề xảy ra ở mu bàn tay và các khớp bàn tay, khớp ngón tay. Phát hiện sưng nề có thể nhìn thấy mu bàn tay sưng lên, mất hết các nếp nhăn (thấy rõ ở NCT do tế bào da đã và đang bị thoái hoá).

Phát hiện sưng nề của mu bàn tay: Dùng ngón tay cái ấn nhẹ vào mu bàn tay mà phía dưới chỗ ấn có nền xương cứng sẽ thấy da bị lõm. Lõm nhiều hay ít còn tùy thuộc vào mức độ sưng nề của từng người bệnh. Người bệnh cũng luôn có cảm giác bàn tay hơi nặng và nhất là đau tự nhiên hoặc khi cử động. Hội chứng vai gáy, bàn tay, ngón tay còn biểu hiện tê bì, rõ rệt nhất là các ngón tay, đặc biệt là ngón tay trỏ, ngón giữa.

Nguyên tắc điều trị hội chứng vai gáy

Khi nghi mắc hội chứng vai, gáy, bàn tay, ngón tay, nên đi khám càng sớm càng tốt, nhất là khám chuyên khoa xương khớp để được chẩn đoán, điều trị và tư vấn kịp thời. Hằng ngày, nên tập luyện vận động các khớp vai, bàn tay, ngón tay. Cần tập các động tác giơ cao cánh tay lên quá đầu, nhiều lần trong mỗi lần tập và trong ngày nên tập vài ba lần để máu dễ dàng lưu thông về tim, tránh ứ đọng ở chi, đặc biệt là nách và gan bàn tay gây chèn ép, phù nề. Người bệnh cũng nên tập động tác quay cánh tay, nhẹ nhàng, không nóng vội; lần đầu tập nên quay một số vòng để thích ứng dần dần, sau đó tăng dần. Mỗi ngày tập vài ba lần, mỗi lần khoảng 10 phút. Để tránh hiện tượng phù nề, người bệnh có thể dùng một số loại băng chun y tế quấn các ngón tay hoặc bàn tay để ép nhẹ nhàng cho máu lưu thông, không được quấn băng chun chặt quá sẽ phản tác dụng. Người bệnh có thể tự xoa bóp các khớp bàn tay, ngón tay hoặc được sự hỗ trợ của điều dưỡng viên hay người nhà để xoa bóp khớp vai cũng như các khớp bàn tay, ngón tay. Bên cạnh tập luyện thì vấn đề dinh dưỡng cũng như thoải mái tinh thần là rất cần thiết. Người bệnh cần ăn uống đủ chất, để tăng cường các loại sinh tố. Cũng nên ăn nhiều rau quả, ăn cá, nhất là các loại cá nhỏ nấu nhừ để ăn được cả xương làm tăng lượng can-xi trong mỗi bữa ăn. Việc tập luyện cũng như dinh dưỡng hợp lí đối với những NCT chưa bị hội chứng đau vai gáy, bàn tay, ngón tay cũng rất cần thiết bởi vì với NCT, sức đề kháng cũng như mọi chức năng của cơ thể giảm đi. Tập vận động cánh tay, khớp vai, bàn tay, ngón tay cũng như tập vận động đốt sống cổ đều đặn hằng ngày có thể tránh mắc phải hoặc hạn chế hội chứng vai gáy, bàn tay, ngón tay ở NCT.

Quý Nhân Sưu tầm và giới thiệu
Theo báo người cao tuổi

Răng chắc thì người khỏe

"Bệnh vào cơ thể từ miệng" là câu được đúc kết từ ngàn xưa. Nhưng hiểu "đầu vào" từ đường tiêu hóa, hô hấp... thì đúng nhưng chưa đủ. Đủ là cần biết 500 loại mầm bệnh luôn chực sẵn nơi răng miệng đợi dịp "đi tắt" qua hệ thống tuần hoàn để phát bệnh...

Phần 1: Kẻ ác rình rập

Thời Tam Quốc có chuyện cụ Băng Kinh, thọ 176 tuổi. Tào Tháo hỏi bí thuật sống lâu, cụ nói: "Mỗi việc ngày ngày gõ răng, nuốt nước miếng". Chả thế người xưa gọi nước miếng là thuốc bổ "cam lồ". Khoa học ngày nay chứng minh răng miệng là môi trường cộng sinh của đủ loại tạp khuẩn. Thế nhưng, trong số "quân ta - quân mình" ấy lại trà trộn vô số "quân nó", có loài ác hiểm stờ - rép - tô - cốp - cơ (Streptocoque) và các loại vi khuẩn gây hại khác làm sâu răng nếu chúng bám được vào men răng và khi chủ nhân ăn đồ ngọt chúng sẽ tiết ra những a - xít làm mất chất khoáng của răng là bước khởi phát bệnh từ răng lợi.

Những mảng bám răng lâu ngày tạo thuận lợi cho bệnh phát sinh, phát triển do lớp mảng bám sâu không nhận được ô - xi nữa, cũng tức là ở đó các tạp khuẩn có ích hiếu khí bị thay thế bởi những mầm bệnh kị khí. Đầu têu phải kể đến vi khuẩn Gờ - ram (Gram) là thủ phạm chính gây bệnh vùng răng lợi.

Đường tắt cho mầm bệnh

Viêm chân răng cũng như sâu răng, mầm bệnh (vi khuẩn) xâm nhập qua răng, chân răng rồi vào máu, chu du khắp cơ thể, điểm đến thì tùy loại mầm bệnh ưa "đặc sản" nào có thể "xơi" ngay mà cũng có thể tạm trú "đợi đấy". Thí dụ, theo Tin tức khoa học (News Scences) thì gần đây có tới 30 - 50% trường hợp viêm màng trong tim có bệnh căn từ răng miệng. Nguy cơ viêm chân răng có thể do cắn nhai một thứ vỏ cứng, sắc hoặc một bàn chải răng lông cứng làm "đứt" dây chằng quanh trụ lợi (trường hợp ăn uống thiếu dưỡng chất, người đau yếu, già cả dây chằng càng dễ "đứt") có thể thấy máu tươi bật ra là "mồi ngon" - đường tắt cho mầm bệnh xâm nhập. Văn y từng ghi rõ: Nhổ một chiếc răng hàm có thể khỏi hẳn chứng đau xương ở gót chân.

Nguy cơ từ răng lợi cũng liên quan đến bệnh tim mạch, tạo thuận lợi cho máu vón cục gây chứng huyết khối. Một tài liệu công bố ở Mỹ năm 2007 đã kết tội chứng viêm lợi làm tăng 7,5 lần nguy cơ thai phụ đẻ non vì độc tố tiết ra từ viêm lợi theo máu tới nhau thai gây tăng tiết chất prô - sta - glan - din - ne (prostaglandine) trong nước ối kích hoạt cổ tử cung giãn mở sớm đẩy thai ra hoặc gây hại cho sự phát triển của phôi, tăng khả năng sốt sản.

Bệnh nặng lợi mưng mủ, cũng là lối tắt cho mầm bệnh tấn công trực diện vào đường tiêu hóa từ thực quản đến trực tràng. Vi khuẩn len lỏi vào tuyến nước bọt gây quai bị, theo màng nhầy xoang hàm gây viêm xoang khiến có cảm giác đau dưới mắt rồi nhanh chóng lan đến hốc mắt làm viêm giác mạc, kết mạc.

Theo đường hô hấp, vi khuẩn vào tới cuống phổi gây viêm. Lời khuyến cáo lây nhiễm từ răng miệng không chỉ đặc biệt đối với người bệnh mạn tính phức tạp như tiểu đường, suy thận, suy giảm miễn dịch... mà với cả những ai thường dùng hoặc lạm dụng thuốc kháng sinh vì các thuốc này dùng lâu làm giảm khả năng miễn dịch. Nguy cơ bội nhiễm cũng được cảnh báo về vệ sinh răng miệng ở những người từng phẫu thuật dạ dày, thực quản, tim, chỉnh hình, v.v...

Giữ đồ làm sạch

Bàn chải răng, cốc nước, nơi để ẩm ướt là "hộ khẩu thường trú" lí tưởng của đủ loại vi khuẩn sinh sản. Nhiều nhà dùng chung bàn chải, để chung bàn chải trong một cái cốc. Nhưng cốc chỉ ba bốn ngày không được cọ rửa bằng xà phòng sẽ thấy thành cốc, ở bàn chải bám vào một lớp chất dính là xác chết, là chất độc vi khuẩn tiết ra. Các xét nghiệm còn xác nhận ở các vòi nước sau một đêm vi khuẩn bám đầy quanh vòi. Vậy là nếu không giữ sạch đồ làm sạch thì vô tình rước thêm mầm bệnh vào răng miệng. Tốt nhất là dùng xong rửa sạch, để khô.

Trong đồ làm sạch răng, tăm xỉa răng là "hung khí" ác hiểm nhất về nhiều mặt. Dân Âu Mỹ không có thói quen xỉa răng nên hàm răng chặt, lợi sít. Người mình trót chọc, ngoáy, đâm thủng chân răng, hở lợi từ bé, càng lớn càng xấu một "góc con người" và ươm mầm đủ loại bệnh từ ngoài vào, trong ra. Người lớn đã trót xỉa tăm thì hãy giữ vệ sinh biết chọn tăm sạch, vật chứa đựng hợp vệ sinh. Trẻ nhỏ chớ cho nhiễm thói quen xấu xỉa răng bằng tăm bẩn. Nay các nhà nhập khẩu bắt chước Tây quảng cáo dùng "chỉ nha khoa": Há mồm, một tay cầm đầu chỉ kéo, ta ta ngoài miệng... cưa - thật diệu vợi, còn mất vệ sinh hơn mà những mảng giắt trong kẽ răng thì chỉ chọc ngoáy mới vừa ý.

Phần 2: Tập sự nha khoa

Bóp nặn chân răng

Năm 1997, tôi giới thiệu cách bóp nặn ổ răng mưng mủ của bác sĩ Đông y Nhật Chư-nô-đa A-ki-ra ở các lớp dưỡng sinh, có số học viên áp dụng rất kết quả, tránh được nha chu viêm rụng hết răng - mà nếu bệnh để tiến triển thành mạn tính thì mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể khó lường. Cách làm là rửa sạch bàn tay, ngón cái và ngón trỏ đưa vào miệng bóp chặt, day mạnh chỗ chân răng đau, mưng mủ thì nặn ra mủ máu.

Vận dụng cách chữa này, tôi dùng một ngón tay chà xát chân răng, cả trong ngoài, răng đã chớm lung lay sau dăm bảy ngày cũng chắc lại. Nhà thơ Phan Cung Việt ở CLB Văn nghệ Báo Tiền Phong làm theo tôi viết ở Tri thức trẻ công nhận trường hợp răng chưa mưng mủ, mới chớm bị đau, sâu và phòng bệnh răng lợi bằng chà xát hằng ngày là rất tốt. Cố thư kí của Bác Hồ, ông Vũ Kỳ (1921- 2005) kể, những năm ở ATK Việt Bắc, Bác chỉ dùng nước muối loãng súc miệng và chà xát, luyện răng chắc, chống nguy cơ mắt kém, răng rụng thêm từ sau thời gian bị giam cầm và giải đi qua 30 nhà lao ở Quảng Tây - Trung Quốc năm 1942.

Luyện cho răng chắc, khỏe

Mức sống và tuổi thọ người xưa rất thấp nhưng khá nhiều người công phu tập luyện theo giới luật đều thọ bách niên khỏe mạnh (chứ không như người nay dân số già hóa nhiều, bệnh tật càng nhiều). Cách gõ răng: Mím môi, dùng ba đầu ngón tay 2 - 3 - 4 gõ ngoài má, dọc hai hàm răng qua môi, gõ mạnh môi trên là huyệt Nhân trung, dưới là Thừa tương. Đồng thời day ấn những răng chớm đau, các huyệt hai bên má, quanh miệng và riêng huyệt Giáp sa, tác dụng kích hoạt dây chằng, thần kinh, làm dày, khỏe niêm mạc miệng, phòng chống những tổn thương rất hay gặp ở dạng bóng, nước, loét, liken - đường chỉ trắng, vàng hoặc đỏ kéo từ chân răng hàm tới mép trong miệng gây nhiễm khuẩn mạn tính, dễ chuyển sang ung thư. Sách cổ còn ghi trước khi đi tiểu cắn răng 36 lần, luyện trong 3 tháng thì hết đau răng.

Mỗi sáng dậy, đầu lưỡi lia quét lên hai hàm răng trên dưới trong ngoài, lia qua hai bên má là cách mát-xa rất tốt cho cả lưỡi, miệng chống viêm nhiễm, lở loét. Hai hàm răng dập vào nhau 20 - 50 lần cho chắc chân răng. Hai thao tác lưỡi và răng này giúp tác động tới gan, mật với hiện tuợng miệng đắng, khô miệng, kích hoạt các tuyến nước bọt sản xuất “cam lồ”, làm động tác nuốt “ực ực” tốt cho cả khoang miệng vòm họng.

Xoay day huyệt đạo

Người xưa có câu “Đau răng không phải bệnh mà là mệnh”, ta hiểu nó thuộc cơ địa đã “lập trình”. Chúng tôi theo dõi và kinh nghiệm cá nhân cho thấy ai có ngón tay trỏ nhỏ và nhọn thường hay bị bệnh răng lợi và xương khớp chi dưới đau, vai cứng bên nào thì cũng thường răng bên ấy đang bị bệnh. Lại nhớ, triết thuyết Đông phương, con người là một vũ trụ nhỏ, mọi cơ quan bộ phận trong cơ thể liên quan chặt chẽ với nhau nên việc day ấn huyệt vị rất tác dụng, phòng, giảm hoặc khỏi đau. Dĩ nhiên, bệnh nặng cấp tính cần đi khám, dùng thuốc.

Các huyệt đạo phòng trị răng miệng nhiều, có thể tham khảo đúc kết ở mặt theo đồ hình 1, ở tay đồ hình 2. Riêng huyệt Giáp xa ở góc xương hàm dưới, chỗ cơ nổi lên khi cắn răng, răng đang đau, ấn mạnh huyệt này lúc đầu đau tê, lát sau hết đau, rất dễ chịu. Có thể phân chia: Đau răng hàm trên bấm các huyệt Hạ quan, Ế phong, Thính cung, Giáp xa, Thái khê, Hợp cốc chuyên trị đau răng, họng, ù tai, chảy máu cam, tê bàn tay, ngón tay…

Chứng đau thần kinh chạc ba dễ lan tới khớp hàm, đau gáy, cứng cổ tưởng như đau răng từng cơn dăm phút dữ dội, nhai nuốt, há miệng khó khăn. Dùng biện pháp mát-xa rất hiệu nghiệm.

Phân biệt đau răng với đau lợi

Nhiều cơn đau mất ăn, mất ngủ khiến người bệnh nghĩ do răng. Nhưng không, do ổ mủ của lợi (nướu) mà người “ngại” đánh răng, đánh răng thiếu vệ sinh hoặc do ăn uống thiếu dưỡng chất làm suy giảm chức năng liên kết bền chặt của lợi với răng. Khi mới bị hở, lợi xốp, phồng lên, sưng đỏ, chớm đau, chảy máu, chỗ loét nhanh chóng mưng mủ, rỉ ra ở kẽ răng, chân răng, tức phần lợi bị hủy hoại.

Không nên dùng bàn chải lông cứng chà xát, mà dùng bàn chải lông mềm, ngón tay mềm, nhẹ điều khiển việc chà xát trong ngoài, mặt bên với nước muối hạt pha loãng và súc miệng kĩ để nước thấm qua các kẽ răng.

Thử tự chế thuốc

Lương y người Nhật C.A-ki-ra chuyên nghiên cứu, giới thiệu “thuốc vuờn nhà” trên Tạp chí Y dược Nhật Bản, đã công bố bài thuốc: Dùng tai cà tươi gói vào giấy thiếc đặt lên xoong chảo, đốt thành than đen rồi tán nhỏ thành bột, trộn với muối rang tán thành bột lượng bằng nhau, thành thứ kem đánh răng tuyệt hảo làm răng trắng, sạch, phòng chống bệnh răng lợi cực tốt với bà con ở các vùng sâu, vùng cao. Ông gọi là “thuốc đặc trị ổ mủ chân răng”. Bài thuốc thứ hai, dùng hà thủ ô trắng, đỏ đều được phơi trong râm, rửa sạch bằng nước muối, khi đi ngủ kẹp miếng hà thủ ô giữa lợi và má, sáng dậy bỏ ra, có mủ thì mủ ra theo. Kẹp liên tục cả ngày càng nhanh khỏi.

Người Trung Quốc mách nhau “thuốc quanh ta” có ba toa dễ kiếm để chữa giảm đau ngay: Một là, cắt một miếng gừng sống đặt vào chỗ răng lợi đau, cắn chặt, nóng rát quá thì dừng lại. Bài hai, 10 quả vải chín, bỏ ít muối vào cùi, sao khô tán bột, cho vào lọ giữ kín, bôi vào chỗ răng đau coi như “tủ thuốc gia đình”. Ba là, long nhãn và băng phiến tán bột, dấp nước bọt cho bột dính vào ngón tay bôi vào chỗ đau, bảo người bệnh hít khí “thuốc” vào dịu đau ngay. Giữ “thuốc” rồi nhổ ra không nuốt. Cách tốt khác, rẻ tiền là nhai lá Lược vàng ngày 6 lá, chia 3 lần, nuốt cả lá lẫn nước.

Ăn uống với răng lợi

Nguyên tắc chung: kẻ thù của răng là đường, dù là kẹo, bánh, đồ ngọt, thức ăn đồ uống chế xuất từ gạo, mì, v.v… Do ăn uống xong, chất ngọt vẫn bám vào men răng, tạo môi trường a-xít để đưa… "sâu" vào răng lợi. Nhưng chất ngọt từ trái cây, rau xanh, củ rễ… lại rất tốt cho răng lợi và tiêu hóa. Ăn đồ sống trước khi ăn đồ chín chừng một giờ tốt hơn do tránh được phản ứng tăng bạch cầu, bảo vệ hệ miễn dịch của cơ thể. Răng lợi rất kị đồ ăn, thức uống quá nóng, quá lạnh, chua, cay, ôi thiu…

Chăm sóc răng lợi

Ăn xong nên đánh răng không chỉ chải ngang hàm răng như chải giặt quần áo mà đổi chiều đứng dọc các kẽ răng vừa sạch các mảng bám giắt, vừa tránh được hiện tượng mài mòn men trên bề mặt do răng bị chà xát nhiều. Chải vòng quanh chân răng để mát-xa, làm chắc chân răng.

Hàm răng giả làm đúng cách, không để trầy, loét niêm mạc lợi và chải sạch sau bữa ăn, ngâm rửa qua đêm, có trục trặc cần chỉnh sửa. Khám răng định kì năm 1, 2 lần là yêu cầu cuối cùng của răng chắc thì người khỏe. Có câu "Cái răng, cái tóc là góc con người". Biết cách chăm sóc răng lợi thì răng chắc đẹp ắt người khỏe

Trịnh Tố Long
Theo Báo người cao tuổi

A-xít u-rích máu cao, nên ăn gì?

Có thể nói, nguyên nhân trực tiếp gây bệnh gút là a-xít u-rích.

Khi lượng a-xít u-rích trong máu tăng cao thì sẽ lắng đọng ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể, đặc biệt là ở khớp mà gây ra bệnh gút. Bởi vậy, một trong những biện pháp quan trọng để phòng chống a-xít u-rích trong máu tăng cao là nên chọn dùng các thực phẩm không hoặc ít có nhân pu-rin và có công dụng tăng cường đào thải a-xít u-rích qua đường tiết niệu. Bài viết sau xin giới thiệu với độc giả một số thực phẩm thông dụng.

Rau cần: Cần trồng dưới nước tính mát, vị ngọt có công dụng thanh nhiệt lợi thủy. Cần trồng trên cạn tính mát, vị đắng ngọt, có công dụng thanh nhiệt, khu phong và lợi thấp. Cả hai loại đều có thể dùng, đặc biệt tốt trong giai đoạn gút cấp tính. Rau cần rất giàu các sinh tố, khoáng chất và hầu như không chứa nhân pu-rin. Có thể ăn sống, ép lấy nước uống hoặc nấu canh ăn hằng ngày.

Xúp lơ: Là một trong những loại rau rất giàu sinh tố C và chứa ít nhân pu-rin (mỗi 100g chỉ có dưới 75 mg). Theo dinh dưỡng học cổ truyền, xúp lơ tính mát, vị ngọt, có công dụng thanh nhiệt, lợi tiểu và thông tiện nên là thực phẩm rất thích hợp cho người có a-xít u-rích máu cao.

Dưa chuột: Là loại rau kiềm tính, giàu sinh tố C, muối ka-li và nhiều nước. Muối ka-li có tác dụng lợi niệu nên người bị gút cần ăn nhiều dưa chuột. Theo dinh dưỡng học cổ truyền, dưa chuột tính mát, vị ngọt, có công dụng thanh nhiệt lợi thủy, sinh tân chỉ khát và giải độc nên loại rau có khả năng bài tiết tích cực a-xít u-rích qua đường tiết niệu.

Cải xanh: Cũng là loại rau kiềm tính, giàu sinh tố C, muối ka-li và hầu như không chứa nhân pu-rin. Cải xanh có tác dụng giải nhiệt trừ phiền, thông lợi tràng vị. Sách Trấn nam bản thảo cho rằng, cải xanh còn có tác dụng “lợi tiểu tiện”, rất thích hợp với người bị thống phong (bệnh gút).

Cà: Cà pháo, cà bát, cà tím... đều có tác dụng hoạt huyết tiêu thũng, khứ phong thông lạc, thanh nhiệt chỉ thống. Đây cũng là loại thực phẩm kiềm tính và hầu như không chứa nhân pu-rin. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cà còn có tác dụng lợi niệu ở một mức độ nhất định.

Cải bắp: Là loại rau hầu như không có nhân pu-rin, rất giàu sinh tố C và có tác dụng lợi niệu. Sách Bản thảo cương mục thập di cho rằng cải bắp có công dụng “bổ tinh tủy, lợi ngũ tạng lục phủ, lợi quan tiết (có ích cho khớp), thông kinh hoạt lạc” nên là thực phẩm rất tốt cho người có a-xít u-rích máu cao.

Củ cải: Tính mát, vị ngọt, có công dụng “lợi quan tiết”, “hành phong khí, trừ tà nhiệt” (Thực tính bản thảo), “trừ phong thấp” (Tùy tức cư ẩm thực phổ), rất thích hợp với người bị phong thấp nói chung và thống phong nói riêng. Đây cũng là loại rau kiềm tính, giàu sinh tố, nhiều nước và hầu như không có nhân pu-rin.

Ngoài ra, người có a-xít u-rích máu cao cũng nên trọng dụng các thực phẩm khác như cà rốt, cà chua, măng, mướp, dưa gang, cải trắng, mã thầy, hành tây, mía, chuối, cam, quýt, đào, hạnh đào, mơ, hạt dẻ... Tăng lượng nước uống để kích thích thải a-xít u-rích ra ngoài. Nên kiêng hoặc hạn chế các thực phẩm có chứa nhiều nhân pu-rin như phủ tạng động vật (gan, thận, não, tụy...), thịt lợn, thịt dê, thịt bò, thịt cừu, thịt gà... những thực phẩm giàu đạm từ động vật. Không dùng các đồ ăn, thức uống có tính kích thích như nước trà đặc, cà phê, rượu trắng, hạt tiêu, hồi, quế, ớt... Người bị gút nặng, a-xít u-rích máu tăng quá cao nên ăn chay theo chu kì như ngày ăn táo, ngày ăn dưa chuột, ngày ăn rau xanh để hỗ trợ điều trị bệnh. Nếu ăn táo hoặc dưa chuột, mỗi ngày ăn 1,5 kg chia 3 - 4 bữa; nếu ăn rau xanh, mỗi ngày 1,5 kg chia nhiều bữa dưới các dạng nấu, xào hoặc làm nộm.

Thư Kỳ (St)
Theo Báo Người cao tuổi

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011

Thực đơn dành cho trẻ từ 6 đến 9 tháng tuổi

Ăn bột 2 bữa/ngày, mỗi bữa khoảng 1/2 – 2/3 chén với đủ 4 nhóm dinh dưỡng chính: chất bột đường, chất béo, chất đạm và rau, trái cây.

Giữa các bữa ăn có thể cho bé ăn thêm pho mát, sữa chua, nước trái cây.

Vẫn cho trẻ uống thêm sữa, trung bình khoảng 500ml – 800ml sữa.

Xin giới thiệu một số thực đơn dành cho trẻ từ 6 đến 9 tháng tuổi như sau:

1. Bột tôm – rau cải ngọt

Nguyên liệu:

Bột gạo 20g (4 muỗng canh gạt)
Tôm đã bóc vỏ 30g (2 muỗng canh)
Lá cải ngọt 30g (3 muỗng canh)
Dầu ăn 10g (2 muỗng cà phê)
Nước 200ml (lưng 1 chén nước)
Nước mắm hoặc muối i-ốt

Cách làm:

Lá cải ngọt rửa sạch, cắt nhỏ hoặc băm nhuyễn
Tôm rửa sạch, lột vỏ, băm nhuyễn, đánh tan với một ít nước
Bột gạo hòa với một ít nước. Bắc phần nước còn lại lên bếp, cho tôm vào nấu sôi, thêm rau cải vào nấu chín. Tiếp tục cho bột vào từ từ khuấy chín, nêm nhạt. Sau đó cho tất cả ra chén và thêm 2 muỗng cà phê dầu ăn vào khuấy đều.

2. Bột thịt – rau ngót

Nguyên liệu:

Bột gạo 20g (4 muỗng canh gạt)
Rau ngót 30g (3 muỗng canh)
Thịt heo nạc 30g ( 2 muỗng canh)
Dầu ăn 10g (2 muỗng cà phê)
Nước 200ml (lưng 1 chén nước)

Cách làm:

Rau ngót băm nhuyễn
Thịt heo nạc băm nhuyễn, tán đều cho vào 30ml nước lạnh.
Hòa 20g bột gạo với một chút nước
Nấu chín thịt với phần nước còn lại, cho rau ngót và bột gạo đã hòa tan vào khuấy đều cho đến khi bột chín. Múc bột ra chén rồi cho 2 muỗng cà phê dầu ăn vào trộn thật đều, nêm nhạt

Nguồn: lamchame.com, 12-22-2011

Những điều không nên làm khi cho trẻ ăn dặm

1. Không nên cho bột hay cháo xay vào bình vì khi trẻ cố gắng nút, bú mạnh để cho bột chảy xuống, trẻ sẽ nuốt nhiều hơi vào bụng và có cảm giác mau no (thực ra là no hơi), dễ bị ọc và trẻ sẽ ăn ít đi. Nên tập cho trẻ ăn bằng chén và muỗng.

2. Khi đút trẻ, không nên đưa muỗng sâu vào trong miệng trẻ, làm cho trẻ ăn dễ bị ọc do kích thích ở cổ họng.

3. Không nên cho trẻ ăn cháo xay nguyễn vì:

- Sau náy mỗi khi gặp phải thức ăn lợn cợn trẻ sẽ dễ ói. Tới tuổi ăn cháo, nên tập cho trẻ làm quen với thức ăn lợn cợn.

- Không loại trừ khả năng phần thức ăn bám lại dưới đáy máy xay sinh tố không được rửa kỹ khiến trẻ dễ bị tiêu chảy.

4. Không nên cho trẻ ăn hoài một loại thức ăn vì trẻ sẽ ngán và ăn ít đi.

5. Không nên dùng nước rau, củ dền, nước hầm xương….để pha sữa cho trẻ. Nước rau củ có thể làm thay đổi mùi vị của sữa, khiến trẻ dễ từ chối sữa.

6. Không nên cho bột hoặc cháo vào bình thủy để trẻ ăn cả ngày vì: Khi nhiệt độ trong bình hạ xuống sẽ tạo một môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Thức ăn dễ bị ôi thiu, gây nhiễm độc và tiêu chảy cho trẻ.

7. Không nên giữ lại thức ăn thừa của trẻ để tránh trẻ bị tiêu chảy, sinh bụng hay ngộ độc (do vi trùng trong nước miếng lây sang thìa múc thức ăn).

8. Không nên bón thìa quá đầy vì trẻ có thể bị sặc, nghẹn.

9. Không nên nấu quá nhừ các loại rau củ do các vitamin B, C tan trong nước, bị phân hủy bởi nhiệt khiến cho thực phẩm không còn nhiều dinh dưỡng như ban đầu.

10. Không nên cho trẻ ăn phần nước mà phải cho ăn cả phần cái của thức ăn để đảm bảo cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho bé.

11. Không nên cho trẻ ăn quá sớm (khi bé mới 3,4 tháng tuổi). Điều này là không tốt do lúc này, khả năng tiêu hóa của bé còn rất kém.

12. Không nên cho trẻ ăn quá nhiều đạm vì sẽ khiến trẻ dễ bị rối loạn tiêu hóa và biếng ăn.

13. Không nên kéo dài bữa ăn vì sẽ khiến cho món ăn bị vữa, khó ăn. Trẻ cũng chưa kịp đói và hứng thú cho bữa ăn kế tiếp. Nếu trẻ ăn chưa hết thì bạn cũng nên ngưng lại. Bữa ăn kế tiếp trẻ sẽ ăn nhiều hơn.

14. Không nên bắt trẻ ăn quá nhiều vì sẽ khiến trẻ sợ ăn. Nhu cầu năng lượng của các trẻ thay đổi tùy theo độ tuổi và thể trạng.

15. Không cho hoặc cho rất ít dần ăn trong khẩu phần của trẻ. Thực ra dầu ăn rất giàu năng lượng và giúp hòa tan các chất khác khiến cơ thể dễ hấp thu.

Nguyên tắc cho bé ăn dặm

- Ăn từ ít đến nhiều, từ loãng đến đặc.

- Từ đơn giản (1 nhóm thức ăn) đến phức tạp (nhiều nhóm thức ăn).

- Cho trẻ ăn cả cái lẫn nước để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho trẻ.

- Thường xuyên thay đổi thức ăn để trẻ thấy ngon miêng.

- Tôn trọng tâm lý ăn uống của trẻ.

- Mỗi bữa ăn chỉ nên kéo dài 30 phút.

- Sữa vẫn là nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của trẻ.

Nguồn: http://www.lamchame.com, 21/12/2011

Uống nước lạnh buổi sáng dễ yếu sinh lý

Việc thường xuyên uống nước lọc để lạnh vào sáng sớm khi tỉnh dậy sẽ khiến phụ nữ dễ mắc chứng đau bụng kinh, tắc kinh, đàn ông suy giảm sinh lý…

Theo quan niệm thông thường, việc uống một cốc nước lọc để mát hoặc lạnh vào buổi sáng khi mới tỉnh giấc sẽ có lợi cho sự bài tiết của cơ thể, giúp nhuận tràng, thông tiện, đào thải được chất độc, khiến làn da tươi sáng mịn màng. Tuy nhiên, các chuyên gia Trung Quốc lại khẳng định, thói quen này hoàn toàn không có lợi cho sức khỏe bởi liên quan mật thiết tới dương khí trong cơ thể.

Dương khí của con người rất quan trọng. Khi dương khí bị tổn thương, có thể khiến các bộ phận trong cơ thể như ngũ tạng, kinh lạc… phát sinh nhiều bệnh tật. Do vậy, các chuyên gia nhấn mạnh, việc uống nước lọc để lạnh vào lúc sáng sớm sẽ làm tổn thương dương khí của các bộ phận như rốn, bàng quang, thận, ruột. Thậm chí, những người có thói quen này đa phần mắc các chứng bệnh hư hàn, phụ nữ thường đau bụng kinh, thậm chí là tắc kinh, nam giới mắc các bệnh về dạ dày, đau khớp, suy giảm khả năng sinh lý.

Các chuyên gia gợi ý, vào buổi sáng sớm, sau khi tỉnh dậy, nên uống một cốc nước mật ong ấm. Theo Đông y, mật ong là một loại thuốc bổ, rất tốt cho gan, có tác dụng thông tiện.

Theo Thùy Liên
Báo Đất Việt

Nguy cơ mù mắt do tiếp xúc với chó bệnh

Bé Amiee Langdon (Anh) có thể bị mù mắt bởi một chứng viêm nhiễm hiếm gặp do tiếp xúc với 1 con chó bẩn ở chỗ vui chơi.

Amiee Langdon bị nhiễm bệnh trong khi đang chơi với các trẻ khác trong công viên Platt Fields tại Fallowfield (Anh) tuần trước. Cô bé trong độ tuổi chập chững này đã bị ngã, tay chạm vào mình của một con chó khá bẩn thỉu này khi đang chơi trong công viên. Sau đó, Amiee đã lấy tay chùi lên mắt trái trước khi mẹ Suzanne kịp chạy tới.

Chị Suzanne, một y tá, đã nhanh chóng lau sạch mắt bé và đưa thẳng bé về nhà, rửa sạch mặt mũi bằng nước ấm. Nhưng ngay ngày hôm sau, Amiee bắt đầu xuất hiện triệu chứng giống cúm và mắt trở nên tím bầm, sưng viêm. Amiee tỏ ra rất đau đớn.

Xét nghiệm tại bệnh viện cho thấy cô bé bị mắc bệnh toxocariasis do ấu trùng giun sán sống ký sinh ở chó gây ra. 2 loại toxocara canis và toxocara cati thường sống ký sinh ở chó và mèo. Trứng của chúng thường nằm ở trên mặt của chó và mèo và có thể lây sang người khi tay người tiếp xúc với mặt của các con chó, mèo nhiễm giun ký sinh. Căn bệnh này nếu không được điều trị trong vòng 72 tiếng, bệnh nhân có thể tử vong do lan lên não.

Các bác sĩ đã dùng tới 3 loại kháng sinh phối hợp, 2 loại đường uống và 1 loại tiêm thẳng vào mắt. Và các bác sĩ hy vọng những kháng sinh này sẽ làm “sạch” mắt của cô bé.

“Nếu nó không hiệu quả thì chúng tôi sẽ phải áp dụng ngay phương pháp khác. Nếu chúng không thể chặn sự lây lan lên thần kinh thị lực và não bộ thì chúng tôi sẽ phải múc bỏ mắt bị bệnh”, BS Langdon, người điều trị trực tiếp cho Amiee cho biết.

Vài ngày tới sẽ mang tính chất quyết định.

Theo Minh Thu

Dân trí/ Dailymail, 19/8/2010

10 loại thực phẩm giúp bạn ngủ ngon

Mất ngủ là vấn đề được rất nhiều người quan tâm. Nó không đơn thuần là do yếu tố tâm lý, mà còn do những thay đổi nội tiết phức tạp và đa dạng bên trong não bộ.

Đôi khi những biện pháp hỗ trợ cho giấc ngủ từ thuốc có thể đem đến những tác dụng phụ khó lường. Những loại thực phẩm sau đây có thể giúp bạn cải thiện tình trạng mất ngủ của mình đấy!

Giấm ăn

Có một số người do những chuyến đi đường dài, làm việc quá sức, mất ngủ về đêm, có thể dùng nước ấm pha với một muỗng giấm ăn để uống, sau đó tĩnh tâm, nhắm mắt lại và thư giãn một chút chẳng mấy chốc bạn sẽ chìm vào giấc ngủ ngay!

Nước đường

Nếu do sự cáu gắt, giận giữ mà dẫn đến khó ngủ, bạn có thể uống một cốc nước đường. Bởi vì nước đường vào trong cơ thể có thể chuyển đổi thành một lượng lớn huyết thanh, từ đó lượng vật chất này di chuyển đến đại não sẽ gây ức chế lớp vỏ đại não và sẽ làm cho bạn dễ ngủ hơn.

Rau diếp

Trong rau diếp có chứa chất nhựa màu trắng sữa, nó có tác dụng trấn tĩnh và an thần, mà lại không chứa độc tính, rất tốt cho những người thần kinh yếu dễ mất ngủ. Khi chế biến rau diếp có thể cắt thành từng đoạn nhỏ đem nấu canh uống, đặc biệt là dùng trước khi ngủ thì càng tốt cho sức khỏe của bạn.

Hoa quả tươi

Người mất ngủ do lao động quá sức, mệt mỏi, trước khi đi ngủ ăn có thể ăn táo, chuối... và một số loại quả khác, có thể chống được sự mệt mỏi cơ bắp. Hoặc lấy hỗn hợp hoa quả đắp lên đầu gối để thư giãn, đôi khi mùi thơm của chúng cũng sẽ thúc đẩy giấc ngủ sâu hơn.

Bánh mì

Khi bạn mất ngủ, ăn một chút bánh mì, nó có thể giúp bạn bình tĩnh lại và dễ ngủ hơn.

Hạt kê

Hạt kê có chứa rất nhiều các thành phần dưỡng chất, và thành phần chính cấu tạo nên hạt kê đó là tryptophan. Theo y học Trung Quốc, nó có lợi cho tỳ, dạ dày và tốt cho giấc ngủ.

Cách dùng: lấy lượng hạt kê cho thích hợp, cùng với nước đem nấu cháo, dùng cho bữa tối hoặc ăn trước khi đi ngủ, có thể sẽ rất tốt cho giấc ngủ.

Củ sen

Trong củ sen có chứa một lượng lớn cacbonhydrat, canxi, phốt pho, sắt, và các loại vitamin... có tác dụng thanh nhiệt, dưỡng máu... Có thể điều trị chứng thiếu máu, mất ngủ.

Cách dùng: Hầm củ sen dưới ngọn lửa nhỏ và sau đó thêm lượng mật ong thích hợp, có thể dùng bất cứ lúc nào bạn muốn, nó có tác dụng an thần và rất tốt cho giấc ngủ.

Hạt hướng dương

Hạt hướng dương rất giàu protein, chất đường, các loại vitamin, các axit amin và các loại chất béo không bão hòa, cụ thể có tác dụng dưỡng gan bổ máu, giúp hạ huyết áp và giảm thiểu cholesterol. Mỗi buổi tối cắn một chút hạt hướng dương sẽ rất tốt cho giấc ngủ.

Hạt sen

Hạt sen rất thơm ngon, có tác dụng bổ tim lợi tỳ, dưỡng máu an thần. Những năm gần đây các nhà thực vật học đã trải qua thử nghiệm và chứng thực, trong hạt sen có chứa chất kiềm các thành phần glicozit và các thành phần mùi hương có tác dụng an thần, sau khi ăn hạt sen sẽ thúc đẩy bài tiết chất isulin. Từ đó tăng cường cung cấp lượng 5-hydroxytryptamine, có thể khiến cảm giác dễ ngủ. Mỗi tối trước khi đi ngủ nấu một bát hạt sen với đường để thưởng thức như vậy sẽ rất có lợi cho sức khỏe vầ giấc ngủ của bạn.

Táo tàu

Táo tàu có vị ngọt, có chứa đường, protein, vtamin C, axit hữu cơ, các chất đạm, canxi, phôt pho, sắt... có tác dụng bổ tỳ và an thần. Mỗi tối lấy khoảng từ 30g ~ 60g táo tàu, sau đó cho nước vào nấu để uống như vậy sẽ rất có lợi cho giấc ngủ.

Nguyễn Quyên - Theo Tech-food